GIẢI THOÁT TỨC THÌ

Tôi tình cờ đọc được tác phẩm ngắn này trên mạng. Đây là một quyển sách về Đạo của một cư sĩ Việt Nam ở nước ngoài. Thiết nghĩ có ích cho chúng ta. Tôi cố gắng liên hệ với tác giả để xin được đăng quyển “ Giải thoát tức thì ” trên trang web này nhưng không được. Hai năm qua, hôm nay vì lợi ích chung, mạo muội đưa quyển sách Đạo lên trang chuabenhdongian.com . Hy vọng được sự hoan hỉ đồng ý của tác giả Nhi Bất Nhược. Bs Huỳnh Hải.

GIẢI THOÁT TỨC THÌ

                                                                             Tác giả: Nhi Bất Nhược

 

LỜI NÓI ĐẦU

Trừ những bậc đại giác với trí huệ siêu phàm, sáng suốt tuyệt đích, mới có cái biết bao la, cùng khắp, không gì không biết, một loại kiến thức tự có, một loại kiến thức mà ngôn ngữ hiện đại gọi là kiến thức đơn phương, đơn cực, còn tất cả chúng ta thì chỉ có những kiến thức duyên sanh, vay mượn, nghĩa là chúng ta phải học tập, phải nghiên cứu tài liệu, sách vở, phải có người chỉ vẽ, giải thích, mới hiểu biết được điều này, điều nọ.

Tôi cũng vậy, viết cuốn sách này, tôi chỉ nhờ góp nhặt những kiến thức mà tôi đã vay mượn từ kinh sách Phật Giáo; từ những tác phẩm của Ngài J Krishnamurti; từ các tài liệu lưu truyền của các tư tưởng gia vĩ đại Đông Phương như Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử; từ các buổi thuyết pháp của các vị tu sĩ hay các vị học giả Phật Giáo; từ những buổi hỏi ĐẠO với các thiền sư và từ các buổi thảo luận về ĐẠO với các thiện tri thức. Chẳng có công lập đức, lập ngôn như các bậc vĩ nhân siêu đẳng, tôi chỉ có một chút công lao, nếu muốn gọi thế, là cố gắng sắp xếp, hệ thống hoá, chi tiết hoá và phụ diễn những kiến thức đã thu thập, đã tom góp ấy, bằng một ngôn ngữ phổ thông, hầu đưa một vấn đề vốn vô cùng uyên bác chỉ dành riêng cho những ai có trình độ cao, có căn cơ lớn, xuống thành bình dân, dễ hiểu mà ở trình độ nào, hễ muốn, người ta cũng có thể lãnh hội, tiếp thu dễ dàng.

Nhưng giản dị hoá một vấn đề vốn phức tạp quá mức không phải chuyện đơn giản mà ai cũng có thể làm được. Nó đòi hỏi một sự hiểu biết vấn đề đến sâu sắc và một nghệ thuật diễn tả cao độ, nên tôi chẳng biết có đạt được phần nào mục tiêu theo đuổi ấy hay không. Nếu không, hay có mà chẳng bao nhiêu, thì rốt lại chỉ còn một tấm lòng muốn đóng góp một vài ý kiến, muốn chia sẻ một vài kinh nghiệm với các bạn gần xa đang băn khoăn tìm đường giải thoát khỏi phiền não, khổ đau và sợ hãi.

Cũng vì vậy, sau một thời gian đắn đo, tôi đã mạnh dạn viết cuốn sách này trong tinh thần bắt chước hoa, chim.
Hoa hễ nở là phô bày toàn bộ hương sắc, không dấu, không bớt, hồn nhiên mà nở. Người đời ai muốn thưởng thức thì cứ việc, thưởng thức ít hay nhiều cũng tùy. Thưởng thức rồi thì khen chê cũng mặc.
Chim cũng vậy, hễ cất giọng hót là hót với tất cả khả năng sẵn có. Ai nghe, ai không nghe, chim chẳng bận lòng. Nghe rồi có phê bình dở, hay, thì chim cũng kệ.
Tuy nhiên, tôi vẫn còn thua chim, hoa ở một điểm. Ấy là tôi còn theo đuổi một mục tiêu, trong lúc chim, hoa thì tuyệt đối không. Hoa khai, chim hót chẳng phải vì ai, hay vì một cái gì, hoàn toàn tự nhiên như nước chảy, mây bay.

Dù mục tiêu tôi theo đuổi không phải là lợi danh, thì cũng là một sự góp tiếng, góp lời. Nhưng đã sống trong xã hội, thì con người, ngoài nợ cơm áo, nhà cửa, thuốc men, v.v… còn nợ tư tưởng, tinh thần. Vậy thì góp tiếng, góp lời âu cũng là một sự trả bớt món nợ này. Vì thế nên biết mình chẳng có văn tài, tôi cũng cứ viết, viết với những lời lẽ quê kệch, nôm na. Kính mong quí vị độc giả khi đã “đạt ý hãy quên lời”.

Nhưng điều mà tôi muốn truyền đạt đến quí vị đọc giả là gì?
- Xin thưa đó là vấn đề giải thoát, giải thoát khỏi phiền não, khổ đau và sợ hãi.
Vấn đề giải thoát này trước hết là Đức Phật, kế đến là các vị tổ và mới đây là ngài J. Krishnamurti đã chỉ dạy. Đức Phật thuyết giảng bốn mươi lăm năm, Ngài J. Krishnamurti trên dưới sáu mươi năm. Những lời lẽ từ hai vị thầy vĩ đại của nhân loại này, cũng như từ các vị tổ, lời nào mà chẳng có vị giải thoát. Tôi chỉ thu ngắn, rút gọn, nhấn mạnh đến những điểm trọng yếu để quí vị độc giả đỡ mất thì giờ thế thôi.
Bản thân tôi đã mất nhiều thì giờ tìm hiểu vấn đề này. Nay tôi muốn quí vị không phải qua một quá trình dài dòng nào mà cũng nắm được yếu chỉ của ĐẠO giải thoát và khi đã nắm được rồi thì tùy quí vị, ai đi nấy đến, ai ăn nấy no.

Đúng vậy, muốn thấy ĐẠO thì phải hành ĐẠO. Nói về ĐẠO không phải là ĐẠO, viết về ĐẠO cũng không phải là ĐẠO. ĐẠO phải thân chứng.
Cá nhân tôi sau khi đã trải qua nào là những đổi thay biến “mây ra chó”, làm “trúc hoá rồng”, nào là những “cuộc thành bại hầu cằn mái tóc”, nào là những “lớp cùng thông như đốt buồng gan” mới liễu ngộ được Đệ Nhất Đế trong Tứ Diệu Đế, tức Khổ Đế, rồi từ đó mới băn khoăn, mới khắc khoải tìm đường giải thoát. Nghe nói ĐẠO PHẬT là ĐẠO GIẢI THOÁT, nên tôi đã tìm đến. Nhưng khốn nỗi, Phật Giáo kinh sách như rừng với các từ ngữ Hán tự vô cùng khó hiểu. Chỉ tìm hiểu nội dung các từ ngữ này, và làm quen với chúng đã là chuyện đòi hỏi rất nhiều thì giờ, mà không vậy thì làm sao nắm được tinh thần câu kinh, bài kệ.

Tuy thế, tôi vẫn cố gắng, gặp gì học nấy, hiểu được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Thầy nào cũng tìm gặp. Buổi thuyết pháp nào biết được, dù gần hay xa, cũng tìm đến dự nghe. Lại còn siêng thăm viếng các nhà nghiên cứu Phật Giáo để có dịp đàm đạo, thảo luận hầu học hỏi các vị tiền bối. Rảnh là lên chùa lễ Phật. Cũng ăn chay (định kỳ), cũng ngồi thiền, v.v… Đúng là tâm trạng một kẻ đang chết đuối (trong bể khổ) muốn tìm bám đến cả một cọng rơm.
Nhưng dù có làm thế đi nữa mà giải thoát vẫn chẳng thấy đâu, và xem ra như có phần lại vướng mắc vào chính những việc đang làm đế mưu cầu giải thoát ấy.

Sau cùng tôi đọc J. Krishnamurti. Ngài J. Krishnamurti đã khẳng định là Ngài không hề đọc bất cứ tác giả nào, kể cả kinh sách Phật Giáo. Ấy vậy mà Ngài đã nói lên những điều mà đức Phật đã thuyết giảng hơn hai mươi lăm thế kỷ về trước. Đúng là “Great minds think alike”! Ngài J. Krishnamurti nói ĐẠO bằng ngôn ngữ hiện đại tương đối dễ hiểu. Nhờ đọc J. Krishnamurti tôi mới hiểu Phật và nhờ đọc Phật tôi hiểu được J. Krỉshnamurti rõ ràng hơn.

Nắm được lý đạo rồi đem thực hành thì thấy có hiệu quả giãi thoát, hiệu quả tức thì, ngay tại cõi đời này, với xác thân này. Vì vậy tôi mới nẩy ra ý định viết cuốn sách này gởi đến quý vị độc giả kinh nghiệm quý báu ấy với niềm chân thành và trân trọng đặc biệt.
Sách tuy gồm một số bài, nhưng chủ ý lại chỉ có một, coi như định đề cho cả cuốn sách. Chủ ý được nhắc đi, nhắc lại trong tất cả các bài viết, một sự nhắc lại cố ý để:

  • Làm nổi lên tầm quan trọng chìa khóa của vấn đề.
  • Giúp cho những độc giả, nếu không có thời giờ đọc cả cuốn sách, chỉ cần đọc một bài, bất cứ bài nào, cũng xong.
Đọc những bài viết, trong cuốn sách này, rất có thể quý vị độc giả, trên bình diện trí năng, tư tưởng, sẽ có những nhận định, những ý kiến khác biệt, nhưng xin quý vị đừng vội phản đối hay tán thành. Chúng tôi không e ngại và cũng không ước mong những thái độ như thế, chỉ vì ĐẠO, thưa quý vị, phải là kết quả của hành trì, chiêm nghiệm, thân chứng, chứ không phải là tranh cãi, đàm luận hay bút chiến.

Tranh cãi, đàm luận hay bút chiến chỉ làm mất thì giờ vô ích.
Tuy nhiên, nói thế cũng không phải chúng tôi không hoan hỷ đón nhận những sai lầm, thiếu sót nếu có, cần được sửa chữa, bổ túc do các vị cao minh chỉ giáo.

Chúng tôi xin tỏ lòng biết ơn thày Minh Thiện, thầy Duy Lực, thầy Viên Minh, giáo sư Cao Hữu Đính, bác sĩ Trương Khuê Quan và anh Sáu Có đã ban cho chúng tôi những hướng dẫn quý báu trên bước đường vào ĐẠO.
Chúng tôi xin cám ơn anh Lê Khắc Huê đã bỏ thì giờ duyệt lãm bản thảo và cho nhiều ý kiến sửa đổi cần thiết.
Chúng tôi xin cám ơn anh Bùi Hy Trọng, anh Tạ Văn Thịnh và tiện nội về những khuyến khích quý báu trong suốt thời gian biên soạn.
Chúng tôi cũng xin cám ơn anh Nguyễn Văn Quýnh, một bậc thức giả, một nhà thâm cứu Nho, Y về những đóng góp quý báu trong lần tái bản sách này.
Sau hết chúng tôi xin cám ơn họa sỹ Nguyễn Chí Hùng đã bỏ thời giờ và công sức trình bày giúp bìa sách, một sự cống hiến không những có mỹ thuật mà còn tràn đầy ý nghĩa. Người họa sỹ tài hoa và giàu tâm đạo này, với sự minh họa Hữu Dư Niết Bàn ngoài bìa đã thâu tóm được toàn bộ những gì cuốn sách chứa đựng bên trong.

Nhi Bất Nhược

Bài một:
THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN

Trong Phật học, vạn pháp(1) được chia ra làm hai loại: Hữu vi pháp và Vô vi pháp.

Hữu vi pháp là các pháp duyên sanh(2). Chúng do duyên mà hình thành, do duyên mà tồn tại và cũng do duyên mà tiêu diệt. Chúng hình thành ra sao, tồn tại và tiêu diệt thế nào cũng đều do duyên cả. Hữu vi pháp vì thế không có tự thân. Chúng không tồn tại độc lập được. Sự hiện hữu của chúng rất tạm bợ, rất phù du, thoắt có, thoắt không. Sự có mặt của chúng được coi là giả tạm, có đấy mà không đấy. Xác thân ta chẳng hạn, là một hữu vi pháp. Nó sinh ra do duyên chứ chẳng do ta. Nó trẻ đẹp hay già yếu cũng do duyên. Ta muốn nó trẻ đẹp mà nó cứ già xấu. Ta muốn có bệnh hoạn đâu mà nó cứ bệnh hoạn. Nó chết đi cũng lại do duyên. Ta muốn sống mà nó cứ chết. Ta muốn chết mà nó cứ sống, và sống thì phải nương nhờ vào khí trời, thực phẩm, nước uống, thuốc men v.v…

Trái lại Vô vi pháp là các pháp không do duyên sanh và cũng không do duyên diệt. Chúng có tự thân và tồn tại độc lập, vĩnh cửu. Thời gian và không gian là những vô vi pháp.

Trong Hán học thì không gian gọi là vũ, thời gian gọi là trụ. Vũ trụ vốn vô thủy, vô chung, nghĩa là không gian và thời gian có từ vô thủy và tồn tại độc lập đến vô chung. Không ai có thể biết được thời gian có từ lúc nào và bao giờ thì chấm dứt. Nó không có đầu và cũng không có đuôi. Không gian cũng vậy, nó khởi đầu từ đâu và tận cùng ở chỗ nào? Loài người sẽ còn mãi mãi khoanh tay trước câu hỏi này. Ngày nay khoa học, kỹ thuật đã tiến bộ nhiều. Người ta đã chế tạo ra các loại viễn vọng kính tân tiến này, đã khám phá ra hàng trăm tỷ thiên hà (galaxy). Mỗi thiên hà có nhiều tỷ ngôi sao, và với khả năng hiện nay, các nhà khoa học cũng chỉ mới thấy được các thiên hà cách ta khoảng 12 tỷ năm ánh sáng mà thôi.

Loài người hẳn sẽ còn chế tạo các loại viễn vọng kính tân kỳ hơn nữa. Nhưng có chế tạo ra thì cũng chỉ để thấy được, càng ngày càng rõ, cái bao la vô cùng, vô tận của không gian, chứ chẳng bao giờ tìm đến được bờ mé của nó, vì nó vốn không có bờ mé nào.

Không gian và thời gian tuy với ta là hai pháp khác nhau, nhưng chúng gắn liền với nhau đến chỗ bất khả phân ly. Có thời gian là có không gian và có không gian là có thời gian, vật lý hay tâm lý cũng vậy. Chẳng bao giờ có cái này mà lại không có cái kia. Người xưa ở Trung Hoa ghép đôi hai chữ “vũ trụ” hẳn cũng để nói lên cái ý đó.

Thời gian là một toàn bộ liên tục không thể cắt chia. Nhưng cũng vì cuộc sống con người đã dựa vào sự vận hành của trái đất, và của các thiên thể gần gũi khác mà chia chẻ thời gian, để định nên năm, tháng, ngày, giờ. Đấy là thời gian vật lý. Con người cũng còn chia cắt thời gian ra làm quá khứ, hiện tại và tương lai. Đây là thời gian tâm lý. Chính thời gian tâm lý này là cơ sở, là cội nguồn của tư tưởng, và tư tưởng là mẹ đẻ của phiền não, khổ đau và sợ hãi. Vì thế, ngài J. Krishnamurti, một vị Phật của thế kỷ 20, có nói: “Thời gian là kẻ thù tâm lý của con người”(3). Thời gian đây là thời gian tâm lý. Đúng vậy, tư tưởng bắt nguồn từ kiến thức và kinh nghiệm mà kiến thức và kinh nghiệm lại là của quá khứ. Trong Phật học thì tư tưởng được gọi là ý, vọng tâm hay vọng niệm. Ý, vọng tâm hay vọng niệm được ví như con vượn chuyền cành, nghĩa là nó luôn luôn lăng xăng, lao xao, chao động. Còn ngày nay người ta ví tư tưởng như một con lắc, luôn luôn đu đưa giữa tương lai và quá khứ, rất ít khi dừng lại ở hiện tại, hoặc có, thì cũng chỉ chốc lát rồi lại tiếp tục cuộc vận hành đu đưa cố hữu của nó. Nếu không có không gian bên tả, bên hữu thì con lắc hết chỗ đu đưa. Nếu không có quá khứ, tương lai thì tư tưởng hết chỗ thành hình và dao động.

Quá khứ là thời gian đã qua đi và cái gì xảy ra trong quá khứ cũng đã qua đi, qua đi vĩnh viễn không bao giờ trở lại nữa. Đôi khi ta thấy có những hiện tượng xảy ra, ta ngỡ là hiện tượng quá khứ trở lại, nhưng thực ra đó là một hiện tượng mới, hoàn toàn mới, vì nó mới xuất hiện lần đầu tiên, chẳng một chút xíu nào giống hiện tượng trong quá khứ cả. Quá khứ chỉ là quá khứ thôi. Quá khứ chỉ có trong ký ức, chứ không có thật. Quá khứ vì vậy là vọng, là huyễn.

Tương lai là thời gian chưa đến. Không ai biết được tương lai thực sự sẽ ra thế nào. Những hứa hẹn về tương lai, những khẳng định về tương lai hầu hết là những ngôn ngữ phù phiếm, nếu không muốn nói là dối trá, lừa gạt. Tương lai chỉ là ảo ảnh do tư tưởng phóng chiếu ra. Tương lai cũng như quá khứ đều là vọng, là huyễn cả.

Còn hiện tại thì sao? Hiện tại là giao điểm hay là đường ranh phân chia quá khứ và tương lai. Chẳng lẽ giao điểm của quá khứ và tương lai vốn là hai cái vọng, lại có thể là chân được sao? Nếu đường ranh giữa quá khứ và tương lai được gọi là hiện tại, thì đường ranh này chỉ có trong tưởng tượng mà thôi. Liệu có một đường ranh nào không có bề dầy chăng? – Chắc chắn là không, và hễ có bề dầy thì đường ranh nấy ắt phải lấn vào hoặc quá khứ, hoặc tương lai, hoặc cả hai. Nên cái mà ta gọi là hiện tại thực tế không có. Nó cũng chỉ là vọng, là huyễn như quá khứ và tương lai mà thôi. Trong cuộc sống, cái được gọi là hiện tại chỉ là những gì ở hiện tiền, nghĩa là những gì đang hiện hữu, đang diễn biến trước mặt ta, trong tâm ta, mà những giác quan ta đang thực sự cảm nhân được.

Quá khứ và tương lai đều là vọng cả, chỉ có những gì ở hiện tiền mới là chân thôi. Xa lìa vọng và sống với chân là giải thoát. Sống với chân là sống trọn vẹn với hiện tiền và sống trọn vẹn với hiện tiền là sống phi quá kkhứ, phi tương lai. Quá khứ và tương lai đã là “phi” rồi thì tư tưởng, mẹ đẻ của phiền não, khổ đau và sợ hãi cũng tự nhiên ngưng dứt. Vì môi trường của tư tưởng là quá khứ và tương lai. Và như trên đã nói, quá khứ và tương lai chỉ là vọng thôi, nên tư tưởng, dù là tư tưởng của ai đi nữa, cũng chỉ là vọng, không hơn không kém.

Chúng ta thường nói hiện tại tôi đang tư tưởng thì thật ra vào thời điểm ấy, những kiến thức và kinh nghiệm mà ta tích lũy trong quá khứ, hoặc do một kích thích ngoại lai nào đó, hoặc tự động trồi lên, lôi kéo ta vào tư tưởng này, tư tưởng nọ, đôi khi miên man bất tận, hết rễ má, đến dây mơ, triền miên không dứt. Những hình ảnh trong quá khứ lại hiện bày ra trong tâm để ta khát thèm, nuối tiếc, khổ đau hay sợ hãi. Nếu là những kinh nghiệm vui thú, khoái lạc, ta mong cầu chúng trở lại, hoặc ta tính toán phục hồi chúng. Nếu là những kinh nghiệm khổ đau và sợ hãi thì ta e ngại sự trở lại của chúng, và ta tính toán việc tránh né, loại trừ chúng.

Tư tưởng của chúng ta cũng phóng ra những ảo ảnh về tương lai, thường là nghịch đảo của quá khứ. Đã gặp những cảnh cùng cực, khổ sở, ta thường phóng ra những hình ảnh đẹp đẽ, huy hoàng. Khi đã bị ngục tù, đàn áp, ta thường phóng ra những hình ảnh về tự do, hạnh phúc. Khi đã nghèo túng, ta thường phóng ra những hình ảnh về giàu có, sung túc. Những ảo ảnh nghịch đảo với quá khứ mà tư tưởng ta phóng chiếu ra như thế, ta gọi là lý tưởng, để rồi ta có thể hy sinh nhiều khi một cách vô ích, vô cùng đau khổ, lao mình vào tôn thờ, rượt bắt hay tìm đạt. Tư tưởng ta cũng lại phóng ra những hình ảnh xấu xa, rùng rợn, trái với cái đẹp đẽ, an bình của quá khứ để mà băn khoăn, lo âu và sợ hãi vẩn vơ. Cứ như thế, tư tưởng ta lăng xăng, lao xao không ngừng nghỉ, khiến tâm ta chẳng có được phút giây nào an tịnh. Kể cả lúc ta ngủ, tư tưởng ta vẫn hoạt động, tạo nên những giấc mơ, buồn, vui, khiếp sợ, khoái lạc đủ thứ. Đôi khi có những ác mộng khiến ta khi thức giấc, thấy thân xác mệt mỏi, tinh thần bải hoải. Nước mắt buồn rầu, lo sợ còn chảy trên má, còn đọng trên mi.

Tư tưởng ta luôn luôn phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá phê bình, phân biệt, để khởi lên yêu, ghét, trọng, khinh. Yêu, trọng thì tìm phương nắm bắt. Ghét, khinh thì kiếm đường loại trừ. Nắm bắt không được thì phiền não, khổ đau, sợ hãi, nghĩa là tư tưởng ta lúc nào cũng không ngừng làm ta phiền não, khổ đau và sợ hãi.

Ý thức rõ rệt như vậy, ta thấy được con đường giải thoát. Giải thoát là giải thoát khỏi phiền não, khổ đau và sợ hãi. Nhưng phiền não, khổ đau và sợ hãi lại từ tư tưởng phát sinh. Đúng vậy, con người là một sinh vật, hơn hẳn các loài sinh vật khác ở chỗ có tư tưởng. Nhờ có tư tưởng, con người đã từ trạng thái thiên nhiên man rợ tiến lên trạng thái xã hội có trật tự, an bình, có văn hóa, văn minh chói lọi và đã tạo nên những tiến bộ vượt bực không ngừng. Nhưng cũng chính vì có tư tưởng nên con người triền miên đắm chìm trong phiền não, khổ đau và sợ hãi.

Nay muốn giải thoát khỏi phiền não, khổ đau và sợ hãi thì phải ngưng dứt tư tưởng, cội nguồn của chúng. Nhưng tư tưởng là gì? Tư tưởng là thời gian tâm lý. Thoát khỏi sự trói buộc của thời gian tâm lý thì tư tưởng tự nhiên ngưng dứt. Vậy thì vấn đề gút lại là làm thế nào có được một nếp sống phi thời gian. Phi thời gian tức là phi tư tưởng. Phi tư tưởng Phật giáo còn gọi là vô niệm hay vô tâm. Phi tư tưởng hay vô niệm, vô tâm chính là Đạo. Đạo giải thoát. Đấy là con đường duy nhất cho những ai muốn giải thoát ngay tại cõi đời này. Hãy chấm dứt mọi công cuộc tìm kiếm, nghiên cứu. Có bỏ công tìm kiếm hay ra sức nghiên cứu thì cũng chỉ uổng công, phí sức mà thôi.

Nhưng phi tư tưởng là khước từ địa vị ưu việt của con người trong thế giới động vật, là chối bỏ những kỳ tích trong tiến bộ về văn hóa, văn minh, về khoa học kỹ thuật mà con người, nhờ có tư tưởng, đã thành đạt được hay sao. Làm thế nào để con người được giải thoát ngay trong địa vị ưu việt ấy, chứ giải thoát để sống cuộc sống của súc sinh, cây cỏ thì giải thoát ấy đâu còn có ý nghĩa gì.

GHI CHÚ:

(1) Pháp là một thuật ngữ trong Phật giáo. Để giải nghĩa chữ “pháp” này người ta dung tám chữ sau đây:

Nhiệm trì tự tánh
Quỹ sanh vật giải.

Nghĩa là phàm cái gì giữ được hình dáng, khuôn khổ, màu sắc của nó để cho người ta khi tiếp xúc với nó biết nó là cái gì thì gọi là pháp. Người ta cũng dung chữ pháp này để chỉ đạo lý của Phật (Phật pháp). 

(2) Duyên là điều kiện. Tiếng Anh dịch là condition. Hữu vi pháp là “the conditioned” và vô vi pháp là “the unconditioned”.

Bài hai:
ĐẠO

Đạo thường được hiểu là tôn giáo như đạo Thiên chúa, đạo Phật, đạo Hồi v.v… Ngoài cái nghĩa tôn giáo, danh từ đạo ở đây còn hàm nghĩa giải thoát, hay đạo là trạng thái giải thoát và đạt đạo là đạt đến trạng thái giải thoát hay nhập vào cảnh giới giải thoát.

Đã giải thoát thì lúc nào cũng trọn vẹn, tròn đầy. Hoặc là giải thoát, hoặc là không, chứ không có giải thoát nửa vời, giải thoát có mức độ, có cấp bậc, tích tụ từ từ, theo thời gian từ nhỏ đến lớn, từ ít đến nhiều, từ thấp đến cao. Ngoài cái tính tròn đầy, giải thoát còn có tính tức thì. Vì thế giải thoát không thể là một cái đích, một mục tiêu để người hành đạo theo đuổi, rượt bắt, cố gắng liên tục, mỗi ngày xích lại gần một chút, lâu rồi cũng tới. Trong Hán tự, đạo là đường đi, nhưng ở đây đạo không có nghĩa là con đường, con đường dẫn tới giải thoát. Nếu quả thật có con đường dẫn tới giải thoát, thì con đường ấy hẳn phải có khởi điểm và chung điểm, và cũng cần có một thời gian nào đó để đi trọn con đường này, nghĩa là nếu có con đường thì lại có vấn đề không gian và thời gian. Và đã có không gian, có thời gian tất có tư tưởng, mà tư tưởng thì lại là mẹ đẻ của phiền não, khổ đau và sợ hãi. Vì vậy, nếu ta quan niệm là có con đường dẫn đến giải thoát, hay có con đường để ta đi tìm giải thoát, thì ta lại vướng mắc vào con đường này, và chẳng bao giờ giải thoát cả.

Đạo ở đây đồng nghĩa với Thiền. Vì Thiền cũng lấy phi tư tưởng làm yếu chỉ hành đạo. “Phi tư tưởng tức tọa thiền chi yếu dã”, nghĩa là tọa thiền thì điều cốt yếu là ngưng dứt tư tưởng.

Sau cùng đạo là chân kiện (fact). Bản thân của đạo là chân kiện. Đối tượng của đạo cũng là chân kiện, tức là những sự kiện diễn biến trong cuộc sống hàng ngày, hay nói ngắn hơn, đạo chính là cuộc sống. Và sống trọn vẹn với cuộc sống chính là hành đạo và đồng thời là đạt đạo vậy.

Chân kiện là những sự kiện đang hiện hữu, đang diễn biến trong nội tâm hay ngoại giới. Chỉ có những chân kiện này mới thật là “chân”, mới mang tính giải thoát. Còn những cái vọng, cái huyễn không giải thoát ta, nếu không muốn nói chính chúng trói buộc, giam hãm ta trong phiền não, khổ đau và sợ hãi.

Đã là chân kiện thì không thể mô tả, luận bàn. Chân kiện là chân kiện. Ngôn ngữ, văn tự chẳng thể là chân kiện. Chân kiện chỉ có thể cảm nhận, thân chứng hay trực nghiệm, chứ không có phương cách nào, phương tiện nào để mà phu diễn, truyền đạt cho được.

Chân kiện không thuộc hôm qua, không thuộc ngày mai. Chân kiện là những gì ở ngay hiện tiền, là những gì đang hiện hữu, đang diễn biến mà các giác quan của ta đang thực sự cảm nhận được. Ta đang ăn một chiếc bánh. Ta đang nghe một bản nhạc. Ăn bánh, nghe nhạc là những chân kiện. Khi ta ăn xong, hay khi bản nhạc vừa dứt thì chân kiện không còn. Chân kiện vốn vô thường, nghĩa là chân kiện biến đổi liên tục và luôn luôn mới mẻ, chứ không cũ kỹ như tư tưởng.

Chân kiện có tính riêng tư, cá nhân. Cái là chân kiện đối với bạn, không là chân kiện đối với tôi và ngược lại.

Bạn đang có nỗi buồn day dứt hay niềm vui phơi phới trong lòng. Nỗi buồn ấy, niềm vui ấy là chân kiện đối với bạn. Chỉ có bạn mới thực sự hiểu biết chúng và cảm nhận được chúng. Dù bạn có tìm đủ mọi ngôn từ thích hợp để phu diễn thì cũng chẳng ai có tài gì mà hiểu biết và cảm nhận được chúng như chính bạn, bất quá thì người nghe cũng chỉ lấy kinh nghiệm buồn vui của họ trong quá khứ để hiểu biết cái buồn vui của bạn bây giờ mà thôi. Nhưng trên thực tế không có cái buồn vui nào lại giống cái buồn vui bao giờ. Ngay đối với chính bản thân bạn, cái buồn vui ở thời điểm “T” này, đâu có giống cái buồn vui ở thời điểm “T” trước đó, hay thời điểm “T” sau này.

Sống với chân kiện là sống trọn vẹn với hiện tiền, và chỉ có những gì ở hiện tiền mới là chân kiện mà thôi. Sống trọn vẹn với hiện tiền là nhận biết đầy đủ những gì đang diễn biến trong nội tâm hay ngoại giới và nhận biết chúng y như chúng đang là, không phân tích, phê bình, lên án hay tán dương. Sống trọn vẹn với hiện tiền tức với chân kiện là hành đạo, và đạt đạo, là giải thoát vậy.

Vì đối tượng của đạo là chân kiện và chân kiện thì ở ngay hiện tiền, nên đạo không cần phải nghiên cứu và cũng không cần kiếm tìm. Nghiên cứu, kiếm tìm thì không bao giờ thấy đạo.

Vì bản thân của đạo là chân kiện, nên đạo không thể luận bàn. Cái luận bàn được không phải là đạo.

Đạo cũng chẳng thể suy nghĩ được. Hễ khởi suy nghĩ về đạo thì đạo không còn là đạo nữa.

Người ta thường ví những người chưa đạt đạo nay muốn bỏ công sức và thì giờ để nghiên cứu và tìm hiểu đạo, như những người không may bị khiếm thị ngay từ lúc sơ sinh, nay muốn tìm biết ánh sáng và màu sắc. Họ họp nhau lại để suy nghĩ, luận bàn về ánh sáng và màu sắc. Ngoài ra họ còn mời các vị học giả, chuyên gia về ánh sáng và màu sắc đến giảng dạy để giúp họ đạt được sở cầu. Nhưng dù họ có bàn bạc đến hết hơi, suy nghĩ đến nát lý; dù các vị học giả, chuyên gia có nói gì thì nói, có nói hay, nói giỏi đến mấy thì những người khiếm thị cũng chẳng thể biết được ánh sáng và màu sắc như người sáng mắt.

Nay nếu nhờ một vị lương y xuất chúng, hay một phép lạ nào đó, mà những người khiếm thị ấy lấy lại được thị giác, thì ngay khi mở mắt ra là lập tức họ biết được thế nào là ánh sáng và màu sắc. Và cũng từ phút giây đó thì họ không còn suy nghĩ, luận bàn thế nào là ánh sáng và màu sắc, và cũng chẳng còn cầu cạnh ai giảng thuyết về ánh sáng và màu sắc nữa, vì họ đã nhận ra là bao nhiêu công sức, thời giờ mà họ đã dành ra trước đây để suy nghĩ, bàn bạc, học hỏi về ánh sáng và màu sắc đều vô ích và sai trật cả.

Tôi còn nhớ vào năm 1977, khi những người sĩ quan và viên chức phục vụ trong chính quyền miền Nam tự do, chúng tôi bị bắt và đưa đi cải tạo tại các trại tập trung trong các tỉnh cao nguyên miền Bắc Việt Nam. Có một hôm tôi và các bạn đồng tù trong trại tù Sơn La được một tên bộ đội cộng sản đưa ra một sườn đồi để dọn nương trồng khoai mì. Sau khi ấn định chỉ tiêu lao động trong ngày và phân phối công việc cho mọi người, tên bộ đội tìm một gốc cây cao, ngồi ngắm trời, ngắm đất. Một lúc sau, tên bộ đội gọi anh đội trưởng tù lại chỗ hắn ngồi và tâm sự như sau: “Trước đây khi còn chống Mỹ cứu nước, tôi có đi B (đi vào Nam vĩ tuyến 17) để chiến đấu, nhưng tôi chưa bao giờ vào đến thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn). Tôi nghe nói trong ấy có phở Tàu Bay ngon lắm. Vậy anh tìm xem trong đội có anh nào trước đây cư ngụ tại thành phố HCM thì nghỉ tay lên đây nói cho tôi nghe xem phở Tàu Bay ngon như thế nào, mà những người vào thành phố HCM về, ai cũng ca tụng”.

Anh đội trưởng liền tiến cử anh T, vì cả đội ai cũng biết anh T là dân nghiện phở Tàu Bay trước đây. Theo lời anh T kể lại thì mười sáng y như một chục, sáng nào anh cũng điểm tâm bằng phở Tàu Bay. Mỗi lần có công tác phải xa Sài Gòn dăm bữa, nửa tháng gì đó, khi về đến thì việc đầu tiên của anh là phải đảo qua hàng phở Tàu Bay, nếu nhà hàng còn mở cửa là anh nhào vô ăn một tô trước khi về nhà. Sài Gòn phở ngon đâu phải hiếm, nhưng anh không ăn được bất cứ loại phở nào ngoài phở Tàu Bay.

Anh T khi được yêu cầu nghỉ lao động để lên chỗ tên bộ đội nói về món ăn mà anh ưa thích nhất trước đây, thì anh vui vẻ nhận lời ngay. Anh tìm mọi lời lẽ thích hợp để mô tả phở Tàu Bay thật chính xác, thật đầy đủ. Nhưng sau khi nghe anh T nói cả giờ lâu, tên bộ đội kết luận:

- Thế mà ai cũng nói phở Tàu Bay ngon, tôi chẳng thấy ngon chút nào?

Đúng vậy, cũng như ánh sáng và màu sắc, phở Tàu Bay là chân kiện. Chân kiện là chân kiện. Ngôn từ là ngôn từ. Ngôn từ chẳng thể giúp ta đi vào chân như của chân kiện được.

Đạo là chân kiện, nên đạo không thể luận bàn. Lão Tử cũng nói: “Đạo khả đạo phi thường đạo”. Nghĩa là cái đạo mà mang ra đàm đạo được thì không còn là đạo nữa.

Có lần tôi đến thăm một thiền sư (thầy Minh Thiền). Có thể thầy Minh Thiền nghĩ rằng bữa đó tôi đến để hỏi đạo, trong lúc thầy không muốn dài lời thuyết giảng về đạo, nên thầy nhắc lại câu chuyện ông Trí đi hỏi đạo trong thiên: “Tri Bắc Du” của Nam Hoa Kinh cho tôi nghe. Đại khái thầy nói:

Ông Trí đi về phương Bắc, tới Huyền Thủy lên núi An Phần gặp Vô Vi Vị để hỏi đạo. Vô Vi Vị giữ im lặng, không nói lời nào.

Ông Trí chán nản bỏ đi. Lần này ông đi về phương Nam tới Bạch Thủy, lên núi Hồ Quyết gặp Cuồng Khuất để xin nói về đạo. Cuồng Khuất nói láp nháp vài lời rồi không nói nữa, lấy cớ đã quên hết.

Ông Trí trở lại Đế Cung để hỏi Hoàng Đế. Ông Trí đã được Hoàng Đế tiếp kiến và hai người chuyện trò tương đắc giờ lâu. Sau đó ông Trí kết luận: “Trong thiên hạ, chỉ có ngài và tôi là biết đạo thôi”. Hoàng Đế gạt đi và nói rằng:

- Vô Vi Vị và Cuồng Khuất mới thật biết đạo. Còn tôi và ông chẳng phải là người biết đạo. Kẻ biết đạo thì không nói. Kẻ nói thì không biết đạo. Vì đạo chẳng thể nói ra. Nói ra được chẳng phải là đạo, nên Trang Tử mới nói rằng kẻ hỏi đạo và người đáp đều là những kẻ không biết đạo.

Lại nữa, sách Truyền Đăng Lục của Trung Quốc có ghi chuyện Tổ Bồ Đề Đạt Ma khảo vấn các đệ tử về đạo trước khi Tổ rời Trung Quốc trở về Ấn Độ. Câu chuyện đại khái như sau:

Tổ Bồ Đề Đạt Ma ở Trung Quốc đã chín năm. Ngài muốn trở về Ấn Độ. Trước khi hồi hương, Tổ gọi các đê tử lại và nói:

- Ngày giờ ta đi sắp tới, vậy mỗi đệ tử hãy nói cho ta nghe sở đắc của mình.

Đạo Phó bạch:

- Theo chỗ tôi thấy của tôi, muốn thấy đạo phải chẳng chấp văn tự mà cũng chẳng lìa văn tự.

Tổ đáp:

- Ông được lớp da của tôi rồi.

Tổng Trì Ni bạch:

- Cái sở đắc của tôi là cái mừng vui thấy nước Phật khi tâm bất động.

Tổ đáp:

- Bà được phần thịt của tôi rồi.

Đạo Dục, một đệ tử khác bạch:

- Bốn đại vốn không, ngũ uẩn chẳng phải thật có(1). Vậy thì chỗ thấy của tôi là không có một pháp nào để đắc cả.

Tổ đáp:

- Ông được bộ xương của tôi rồi.

Rốt hết, tới phiên Huệ Khả(2). Huệ Khả lễ bái Tổ rồi đứng một chỗ, im lặng, không bạch lời nào.

Tổ nói:

- Ông được phần tủy của tôi rồi.

Cũng như Vô Vi Vị, cũng như Cuồng Khuất, những người đã chứng đạo, Huệ Khả không nói năng gì, vì Đạo chẳng thể dung ngôn ngữ mà nói ra được. Về phần Bồ Đề Đạt Ma cũng vậy. Ngài là tổ thứ 28 của Ấn Độ và là sơ tổ của Trung Quốc. Nhớ lời dặn của tổ thứ 27 là Bồ Đề Đà La, ngài đã cưỡi sóng qua Đông Độ (Trung Quốc) để truyền bá chánh pháp. Nhưng tại đây, quá trình truyền đạo của ngài cũng không phải là một quá trình ồn ào, nói năng, giảng thuyết. Tại chùa Thiếu Lâm trong dãy núi Tung Sơn, huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam, ngài ngồi ngó vách, trọn ngày làm thinh. Nên người đời mới gọi ngài là “Bích Quán Bà la môn” nghĩa là ông Bà la môn ngó vách và Tuệ Trung Bồ tát (tên thật là Trần Quốc Tảng, con trai của đức Trần Hưng Đạo) khi viết về tổ Bồ Đề Đạt Ma cũng không ngần ngại hạ bút: “Thiếu Thất cửu niên vô nhất ngữ”(3).

Ngài ở Trung Quốc chín năm mà hầu như suốt chín năm ấy, ngài chẳng nói năng gì bao nhiêu. Thì ra tại trời Tây (Ấn Độ) hai mươi tám vị tổ đều lần lượt truyền tâm ấn cho nhau, cũng như tại Trung Hoa, ngài Bồ Đề Đạt Ma đã dĩ truyền tâm ấn cho ngài Huệ Khả, vị tổ thứ hai của Trung Quốc vậy.

Trong “Lục Môn Thiếu Thất”, thiên “Huyết Mạch Luận”, tổ Bồ Đề Đạt Ma cũng có dạy: “Nói cho cùng lý: giáo là lời nói, thật chẳng phải đạo. Đạo vốn không lời”.

Đức Phật sau khi thành đạo, chỉ muốn giữ im lặng, chẳng muốn nói ra, nên người đương thời mới gọi ngài là Sakya Muni (Sakyalà tên bộ tộc, Muni là thầm lặng), nghĩa là vị đại Sa môn thầm lặng thuộc bộ tộc Sakya. Ngài không nói ra, vì ngài không thể nói ra. Ngôn ngữ dù phong phú đến đâu cũng không thể đưa con người vào chân như của chân kiện được. Đạo là chân kiện, nên không thể dung ngôn ngữ mà phu diễn truyền đạt. Nói về chân kiện thì nói nhiều trật nhiều, nói ít trật ít.

Lúc đó có vị Phạm Thiên Sahampati tìm đến long trọng cung thỉnh ngài nói pháp. Ngài từ chối. Vị Phạm Thiên cung thỉnh lần thứ hai, ngài cúng từ chối.

Vị Phạm Thiên cung thỉnh lần thứ ba. Lần này có lẽ vì quá thương xót chúng sinh trầm luân khổ hải, nên ngài nhận lời và bắt đầu truyền bá giáo pháp, nghĩa là thuyết giảng về đạo giải thoát. Đúng vậy, yếu chỉ của Phật giáo chỉ là con người và sự giải thoát con người.

Nhưng sau khi thuyết giảng bốn mươi lăm năm(4), ngài đã khẳng định là ngài chẳng nói được gì. Khẳng định như vậy vì ngài e rằng người đời trụ vào giáo thuyết của ngài mà lầm lẫn chấp nhận rằng giáo thuyết này là đạo, nhận phương tiện làm cứu cánh, để rồi giải thoát thì chẳng thấy đâu, mà chỉ thấy càng ngày càng lún sâu vào vướng mắc.

Ngài cũng nói là tất cả những điều ngài thuyết giảng trong bấy nhiêu năm chỉ là ngón chỉ trăng. Trăng tượng trưng cho đạo. Tất cả giáo thuyết của ngài chỉ nhằm vạch ra một hướng đi, rồi ai nương vào đấy mà đi, thì người ấy đến, chứ cứ khư khư ôm lấy cái ngón kia thì muôn đời không giải thoát được.

Đúng là tự thân của đạo, chân như của đạo thì chẳng thể dùng ngôn ngữ mà nói ra được. Nhưng đường đi vào đạo, nẻo đến với đạo thì cũng phải được trình bày, bộc lộ để giúp tha nhân có lòng tìm đạo, biết đường, biết nẻo mà đi. Cái ngón chỉ nẻo đưa đường ấy trong Phật giáo là cả một kho tàng giáo lý to lớn, uyên bác. Với những ai muốn trở thành học giả Phật giáo hay những ai muốn góp công lớn vào việc hoằng dương Phật pháp thì dĩ nhiên phải bỏ công sức và thời gian để tìm hiểu, nghiên cứu sâu rộng kho tàng giáo lý vĩ đại ấy. Nhưng, nếu chỉ muốn có một chìa khóa để mở cửa vào đạo thì việc học hỏi, nghiên cứu giáo lý của Phật đến sâu sắc tường tận lại không cần thiết. Chỉ một câu nói của Phật cũng đủ đối với hành giả rồi.

Vì cũng như mọi giọt nước của đại dương đều có vị mặn, lời nói nào của Phật mà chẳng có vị giải thoát. Chẳng hạn như lời trao đổi của Phật với một vị giáo chủ ngoại đạo hay lời trối trăn của Phật với các đệ tử lúc ngài sắp nhập diệt dưới đây: 

Lúc sinh thời của Phật có một vị giáo chủ ngoại đạo tìm đến tiếp xúc, trao đổi với Phật. Nội dung trao đổi rất ngắn ngủi nhưng vô cùng xúc tích, Vị giáo chủ ngoại đạo hỏi Phật:

- Tôi nghe nói đạo của ngài là đạo giải thoát, vậy những người theo ngài hành đạo thì hàng ngày họ phải làm gì để được giải thoát?

Phật đáp:

- Họ đi, đứng, nằm, ngồi, tắm, giặt, ăn, ngủ.

Vị giáo chủ ngoại đạo tiếp:

- Chỉ có vậy thôi ư? Đạo nào mà người theo đạo chẳng đi, đứng, nằm ngồi, tắm, giặt, ăn, ngủ. Chỉ làm có thể mà giải thoát sao?

Phật nói thêm:

- Ai thì hàng ngày cũng đi, đứng, nằm, ngồi, tắm, giặt, ăn, ngủ, nhưng khi họ đi, đứng, nằm, ngồi… thì họ không ý thức và chú tâm vào việc họ đang đi, đứng, nằm, ngồi… Còn đạo hữu của tôi thì khi đi, đứng, nằm, ngồi… họ ý thức và chú tâm vào các hoạt động đi, đứng, nằm, ngồi… ấy.

Ý thức và chú tâm vào mọi hoạt động của thân, tâm là thực hành chánh niệm. Chánh niệm là chìa khóa giải thoát. Thực hành chánh niệm là hành đạo và tức thì giải thoát. Xách nước, chẻ củi, quét nhà, thậm chí đến việc tiêu hóa, bài tiết nếu được ý thức và chú tâm thì cũng đều là hành đạo cả. Có một vị thiền sư đã nói là đối với hành giả Thiền tông thì cầu tiêu, nhà tắm cũng là thiền đường. Lời nói này âu cũng hàm chứa cái ý trên đây.

Chánh niệm là chìa khóa mở cửa và lập tức đưa hành giả vào tòa lộng lẫy của đạo giải thoát, mặc dù trong cuộc sống hành giả có là ai đi nữa, có ở trình độ, địa vị nào đi nữa.
Lại nữa, trước khi nhập diệt tại rừng Sa La Song Thọ, đức Phật có trối trăn với các đệ tử một điều vô cùng quan trọng. Ngài khuyên các đệ tử phải tinh tấn hành Tứ Niệm Xứ. Ngài nói bất cứ ai tinh tấn hành Tứ Niệm Xứ thì người đó là đệ tử chân chánh của ngài.

Tứ Niệm Xứ là gì? Tứ Niệm Xứ là bốn trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo, phép tu của Thanh Văn gồm:

  1. Quán thân như thân.
2. Quán thọ như thọ.
3. Quán tâm như tâm.
4. Quán pháp như pháp.

Thế nào là hành Tứ Niệm Xứ?

1. Thân ta làm gì (đi, đứng, nằm, ngồi, tắm, giặt…)

2. Những cảm giác ta thọ như phiền não, khổ đau, sợ hãi hay hỷ lạc và quá trình: sinh, trụ, dị, diệt của chúng.

3. Tâm ta thế nào (tham, sân, si, đố kỵ, ghét, yêu…)

Tất cả mọi hoạt động của thân, mọi cảm giác và mọi hiện tượng trong tâm giới đều được ý thức đầy đủ, tức thì và chú tâm theo dõi không xao lãng, không lơi lỏng.

4. Còn khi đối pháp ta hãy nhìn vạn pháp như vạn pháp đang là, không gán ép cho chúng bất cứ một tướng nào khác, nghĩa là nó làm sao thì ta thấy nó làm vậy, thế thôi.

Hành Tứ Niệm Xứ cũng là thực hành chánh niệm, cũng là hồi quang phản chiếu, một phép tu cao tột, rốt ráo. Hành Tứ Niệm Xứ cũng là sống phi tư tưởng, là sống trọn vẹn với hiện tiền, với cuộc sống, là hành đạo vậy, vì:

”Sống là đạo, ngoài ra không có đạo nào khác. Đạo nào khác đều tìm thánh mà bỏ phàm, đều ham ngộ mà bỏ mê, đều bỏ đời mà cầu đạo, đều tự trói buộc mình”(5). “Cho nên bất cứ phương diện nào của cuộc sống cũng là đạo”(6).

Đúng vậy, đạo là cuộc sống. Ngoài cuộc sống không có đạo. Sống trọn vẹn với cuộc sống chính là đạo, là tự mình mở cửa và tức thì bước vào cõi giải thoát hoàn toàn. Vì thế mà ngài J. Krishnamurti mới nói:

“Cái mà Phật gọi là Niết Bàn, Jesus gọi là Thiên Quốc, tôi gọi là cuộc sống”.

GHI CHÚ:

(1) Bốn đại: Đất, nước, gió, lửa. Trong con người thì đất chỉ các chất rắn như xương, răng, tóc, móng tay, da, thịt, gân v.v… Nước chỉ các chất lỏng như mồ hôi, nước tiểu, nước mắt v.v… Gió chỉ hơi thở. Lửa chỉ thân nhiệt.

Ngũ uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là năm món tích tụ, hòa hiệp, làm thành thân tâm của người ta, của chúng sinh. Sắc là phần vật chất (body, substance, matter) và thọ, tưởng, hành, thức là phần hồn hay phần tinh thần (soul, spirit).

(2) Huệ Khả: Đệ nhị tổ Thiền tông Trung Hoa. Huệ Khả là đệ tử của Sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma.

(3) Chín năm tại chùa Thiếu Lâm không nói một lời.

(4) Có tài liệu nói là 49 năm.

(5),(6) Trích bài Bạt của ông Trúc Thiên trong “Sáu cửa vào động Thiếu Thất”.

Bài ba:
HÀNH ĐẠO

Hầu hết chúng ta đều quan niệm đạo là tôn giáo với giáo chủ, thánh thất, thánh địa với kinh sách, với giáo sĩ, giáo luật và các thủ tục nghi lễ. Vì quan niệm như thế, nên chúng ta rằng hành đạo là tôn thờ giáo chủ, là tham dự thánh lễ hay cầu nguyện ở giáo đường, là tuân thủ giáo luật, là tụng đọc kinh sách, là chấp hành giáo lý, là thi hành các thủ tục nghi lễ, là kính trọng và nghe lời các giáo sĩ. Nếu là Phật tử, thì hành đạo là tới chùa lễ Phật, nghe pháp, ăn chay, giữ giới, bố thí, đọc tụng và chấp hành kinh sách cùng là kính trọng và cúng dường tăng ni.

Quan niệm đạo như thế và hành đạo như vậy về phương diện xã hội, đã đóng góp một phần vô cùng quan trọng cho cõi nhân sinh. Vai trò của đạo tức của tôn giáo đối với hòa bình, trật tự và tiến bộ xã hội thật vô cùng trọng đại, trọng đại đến chỗ không thể thiếu được. Vì tôn giáo nào cũng dạy làm lành, lánh dữ, dạy khoan thứ, vị tha, dạy tình thương, tình thương không những đối với cả bạn lẫn thù mà còn đối với cả muông thú, cỏ cây nữa. Tôn giáo cũng đưa ra những hình phạt tinh thần, tâm linh, không phải chỉ trong kiếp này mà còn ở nhiều kiếp khác về sau, không phải chỉ ở cõi thế gian này, mà còn ở cõi khác, để làm lùi bước, làm nản lòng, làm chùn tay những kẻ bất lương có ý phá hoại an bình, trật tự của xã hội.

Về phương diện cá nhân, thì tôn giáo là một nhu cầu tinh thần của con người, dù bán khai hay văn minh cũng vậy. Người ta không thể sống không tôn giáo. Vì vậy tự do tôn giáo được coi là những quyền cơ bản của con người, đã được hầu hết các quốc gia trên thế giới công nhận, và đã trở thành một quyền hiến định trong mọi quốc gia.

Cá nhân nào nhiệt tâm, nhiệt tình hành đạo như vậy, thì không những phước báo vô lường, mà còn tức thì giải thoát, nếu biết hành đạo trong tỉnh thức.

Thế nhưng đa số chúng ta, có thể nói là hầu hết, đã theo tôn giáo này, tôn giáo nọ với tinh thần tham cầu và sợ hãi. Chúng ta muốn cầu xin đấng Siêu hình đầy quyền lực giúp chúng ta đạt được những mục tiêu mà chúng ta nhắm tới. Có những mục tiêu cụ thể, cận kề, ngay trong kiếp này, như danh lợi, tình yêu, sức khỏe v.v… Cũng có những mục tiêu xa xôi thuộc về tâm linh, không ở trong cuộc sống này, không ở cõi thế gian này.

Con người vốn rất sợ hãi sự chấm dứt cái tôi, tức sợ chết, vì vậy, luôn cầu mong cái tôi được liên tục, được trường tồn. Hơn thế, con người ai cũng sợ khổ, nên con người không những muốn trường tồn, mà còn muốn trương tồn trong vinh quang, trong hạnh phúc huy hoàng. Do đó, con người đã đến với tôn giáo để cầu xin một kiếp sống khác, ngay sau khi chết đi, ở một cõi khác, một kiếp sống thường hằng, vĩnh cửu và hạnh phúc tuyệt đối.

Ngoài ra, con người trong cuộc sống cũng còn cảm thấy yếu ớt, bất lực trước thiên nhiên, trước hoàn cảnh, nên luôn luôn băn khoăn, lo sợ và cần đến một sự che chở của đấng quyền năng.

Nếu không có những vấn đề, những mục tiêu vượt ngoài tầm tay mà con người cần được giải quyết hay nhắm tới, nghĩa là nếu vô sở cầu, thì chắc chắn người đời ít đến với tôn giáo, giáo đường, Phật đường sẽ hương lạnh, khói tàn, lối rêu, sân cỏ.

Năm 1984, tôi có cùng đi chơi với một anh bạn, tới một cơ sở tôn giáo nọ, có tiếng là linh thiêng trong vùng. Anh bạn tôi tìm đến nơi này để cầu xin một chuyến đi, hay đúng hơn là một chuyến vượt biên trót lọt, thuận buồm xuôi gió, tới bến, tới bờ. Chúng tôi đã thấy trên tường của cơ sở tôn giáo này đóng chi chít những bản tạ ơn đúc khắc rất đẹp. Thì ra, trước nay đã có rất nhiều người, bổn đạo hay không bổn đạo, tìm đến nơi này để cầu xin đấng Siêu hình nhiều quyền năng giúp đỡ cho đạt được mục tiêu trong mọi mưu toan, tính toán riêng tư.

Tôi cũng có một anh bạn, sau khi đi cải tạo về, dốc lòng hành trì Phật pháp, đã tìm đến một ngôi chùa nọ, để làm công quả. Anh làm ở đấy một thời gian dài trước khi định cư ở nước ngoài. Anh bạn này có xác nhận với tôi rằng, hầu hết những người tới chùa chỉ để cầu xin chuyện nọ, chuyện kia, thậm chí cả chuyên mua may, bán đắt, hoặc trúng số, trúng đề.

Và chúng ta thường nghe người đời nói với nhau rằng, mỗi khi gặp khó khăn, như cơn đen, vận rủi, bệnh tật nan y, tai kia, nạn nọ, thì cứ kính cẩn cầu xin Đức mẹ Maria hay Bồ tát Quán Thế Âm cứu giúp, là mọi việc sẽ êm xuôi, bệnh hoạn tiêu tán, tai qua, nạn khỏi.

Đến với tôn giáo với bản chất tham dục, con người coi đạo là một phương tiện, để đạt các mục tiêu xa gần, thể chất hay tâm linh. Nhưng mục tiêu là những gì thuốc về tương lai.

Tương lai là thời gian tâm lý. Có thời gian ắt, có tư tưởng. Có mặt tư tưởng là có mặt các phiền não, khổ đau và sợ hãi. Thế nghĩa là, đã có mục tiêu để theo đuổi, để rượt bắt, để cầu cạnh, thì không thế có giải thoát được.

Chính tổ Bồ Đề Đạt Ma trong “Lục Môn Thiếu Thất” đã khẳng định:

Niệm Phật thì được nhân tốt
Tụng kinh thì được thông minh
Giữ giới thì được sinh lên cõi trời
Bố thí thì được phước báo
Nhưng tìm Phật bằng những cách ấy, quyết chẳng được vậy(1).

Tìm Phật đây là tìm giải thoát. Niệm Phật, tụng kinh, giữ giới, bố thí là gây nhân tốt. Có nhân tốt, tất có quả tốt, nghĩa là có phước báo. Nhưng nếu niệm Phật, tụng kinh, giữ giới, bố thí với tinh thần tham cầu, sợ hãi, nghĩa là với sự có mặt của tư tưởng thì không thể có giải thoát được.

Hơn thế nữa, có tư tưởng là có phân biệt. Hành giả hành đạo với cái tâm phân biệt thì tôn giáo, tín ngưỡng lại mang đến cho xã hội không ít đổ vỡ, đau thương. Phật học nói: “Nhất niệm khởi, thiện ác dĩ phân”. Nghĩa là hễ có tư tưởng, là lập tức có nhị nguyên đối đãi. Vì có tư tưởng là có so sánh, phê bình, đánh giá, để đi đến kết luận tôn giáo này to, tôn giáo kia nhỏ, tôn giáo này hay, tôn giáo kia dỡ, tôn giáo này cao, tôn giáo kia thấp. Giáo chủ này hơn, giáo chủ kia kém v.v… để rồi khởi yêu, khởi ghét, đưa đến oán thù, tranh chấp. Cổ kim sự kiện này không hiếm, thậm chí máu đã chảy, xương đã rơi. Thảm cảnh này xảy ra không phải chỉ giữa các tôn giáo khác nhau, mà còn ngay giữa các hệ phái trong cùng một tôn giáo nữa.

Vào năm 1985, tôi có đến dự tang lễ tại nhà riêng của một người quen. Vị đại diện tôn giáo chủ trì buổi tang lễ hôm đó, không phải hạng chức sắc, và trong khi làm lễ, đã lớn tiếng minh xác rằng, giáo chủ của ông ta vĩ đại nhất, cao cả nhất và nhiều quyền năng nhất, không một vị giáo chủ nào trên thế giới có thể so sánh được. Lời nói ấy đã làm cho một số người theo các tôn giáo khác có mặt trong buổi lễ hôm đó đã mếch lòng, bực dọc.

Tóm lại, hành đạo với cái tâm tham cầu và phân biệt. Nghĩa là hành đạo ở trong vòng trói buộc của không gian và thời gian, hay nói khác đi, hành đạo với sự chi phối của tư tưởng thì lợi đấy mà cũng hại đấy. Hậu quả là xã hội chia rẽ, tranh chấp, cá nhân thì vướng mắc, trói buộc, không giải thoát được.

Nếu nói hành đạo với tinh thần vô sở cầu hay vô tư, nghĩa là không theo đuổi một mục tiêu nào, thì mới được giải thoát. Vậy chứ chính sự giải thoát kia chẳng phải là mục tiêu mà người hành đạo vô tư nhắm tới hay sao?

– Hành đạo là sống với chân kiện. Chân kiện là những gì ở ngay hiện tiên. “Đương xứ tức chân”. Nói khác đi, hành đạo là sống trọn vẹn với hiện tiền, là sống phi thời gian, tức phi tư tưởng vậy. Tư tưởng một khi đã “phi” rồi thì phiền não, khổ đau và sợ hãi không còn. Bất cứ hễ ai hành đạo là giải thoát, để rồi sẽ được giải thoát trong một tương lai xa gần nào đó sau này. Hành đạo và giải thoát, thật như hai mặt của một đồng tiền. Hễ có cái này, lập tức có cái kia. Từ hành đạo đến giải thoát không có một khoảng không gian nào để tư tưởng có thể lẻn vào để gieo rắc phiền não, khổ đau và sợ hãi. Ở đây nhân quả tức thì. Nhân đồng thời lại là quả. Nên mục tiêu tuy có mà cũng như không.

Trong cuộc sống, kể cả hành đạo, hễ có mục tiêu là có phiền não, khổ đau, và sợ hãi. Nhưng trong cuộc sống thường nhật, chẳng lẽ con người lại có thể không theo đuổi một mục tiêu nào sao?

– Chắc chắn là phải có. Chúng ta không thể quan niệm được rằng, hành động của một người bình thường trong cuộc sống hằng ngày lại không nhắm tới một mục tiêu nào cả. Chẳng lẽ bạ đâu nói đây, bạ đâu làm đấy hay sao? Nói, làm, đi, đứng phải nhắm tới một tiêu xa gần nào đó, như đi chợ, đến trường, đến sở làm, đi thăm viếng bà con, bằng hữu v.v… Trường hợp chúng ta không đi đến một nơi nào rõ rệt, như đi tản bộ, hóng mát, hay vận động cho cơ thể được dễ chịu, thì cũng không phải là không có mục tiêu.

Hơn thế, một hành động có khi còn nhắm tới nhiều mục tiêu cùng một lúc. Thí du: một người thợ làm việc trong xưởng thì chắc chắn anh ta đang nhắm tới một số mục tiêu, gần có, xa có. Gần như hoàn thành chỉ tiêu giao phó, tiền lương được trả vào lúc mãn giờ, cuối tuần hay cuối tháng. Xa như tiền thưởng cuối năm, nâng cao tay nghề, nâng cao bậc lương, hưu bổng lúc về già v.v… Không một hoạt động nào của con người là không nhắm tới một mục tiêu nào đó. Và mục tiêu càng cấp thiết, gắn bó thì phiền não, khổ đau và sợ hãi càng nhiều.

Trường hợp ta đi thăm một người bạn, nếu gặp được, thì ta cùng bạn trò chuyện chốc lát cho vui, cho qua ngày giờ, bằng không gặp thì thôi, hoàn toàn khác với trường hợp ta đi tìm gặp một người bạn để giải quyết một chuyện có tính thiết thân. Nếu ông bạn ấy vắng nhà, thì chuyện không thành, và lỡ một dịp may hiếm có mà ta hằng mong đợi từ lâu. Trường hợp trên thì suốt dọc đường đi đến nhà bạn, tâm ta tương đối bình ổn. Còn trường hợp dưới, thì trái lại, tâm ta bồn chồn, sợ hãi.

Tôi còn nhớ lúc thiếu thời tôi theo học lớp nhất bậc Tiểu học (cours supérieur) tại một thị xã nọ ở miền Bắc Việt Nam. Tôi từ làng quê lên thị xã trọ học, nên gây tốn kém cho gia đình không ít. Ngay đầu năm học, cha mẹ tôi đã cho biết là cảnh nhà bần bạc, nên năm ấy tôi phải gắng học thế nào để cuối năm đậu được bằng Tiểu Học Pháp Việt Certificat d’étude Primaire Complémentaire Indochinois, gọi tắt là CEPCI). Đậu hay không đậu, cũng phải nghĩ học, vì gia đình tôi không còn khả năng cho tôi học tiếp. Đậu được, thì theo lệ làng, tôi được tham gia Hội Đồng Kỳ Mục (Conseil de Notables), tức là hội đồng lập pháp cấp làng, suốt đời được miễn các dịch vụ cực nhọc như làm đường, đắp đê, đào kinh v.v… Đậu được, có thể xin làm giáo làng (maître communal), còn gọi là hương sư, với số lương tạm đủ sống ở thôn quê. Làm giáo làng, thì bề nào bản thân tôi và gia đình tôi cũng được người đời trọng nể hơn.

Còn không đậu, thì tôi phải đi học một nghề tay chân nào đó, chắc chắn là vất vả, cực nhọc hơn để kiếm sống, phải làm mọi dịch vụ cực nhọc của trai tráng đối với thôn làng. Bản thân và gia đình sẽ bị người đời xem thường, coi khinh. Ngoài ra không đậu được bằng Tiểu Học Pháp Việt để làm chân giáo làng, thì chưa chắc gì bên nhạc gia tôi lại tôn trọng lời hứa hôn, một điều mà bản thân tôi và gia đình hằng ước muốn, cầu mong.

Tính toán và cân nhắc như vậy, mảnh bằng Tiểu Học Pháp Việt đã trở thành một mục tiêu cấp thiết của tôi. Tôi phải đạt mục tiêu này bằng mọi giá. Không đạt, không được. Đời tôi đi lên hay đi xuống cũng tùy ở chỗ tôi có đạt được mục tiêu này hay không. Tôi gắn bó với mục tiêu vô cùng chặt chẽ. Những lúc chú tâm làm bài, học bài, hay vui chơi giải trí thì thôi, còn hễ nghĩ đến thi cử là lại sợ hãi, sợ hãi suốt năm. Những hình ảnh xấu xa, nhục nhã của một mảnh đời đi xuống vì hỏng thi, luôn luôn đe dọa tôi không ngừng. Càng về cuối năm học, gần đến kỳ thi, thì những hình ảnh này càng thêm rõ rệt, và sợ hãi cứ tăng dần.

Đến ngày thi, bước vào phòng thi, thân tôi run rẩy, mắt hoa, đầu váng. Nhưng rồi mọi chuyện cũng qua. Sau cùng tôi đã đậu, và đậu hạng thứ (mention passable).

Thế là cả một năm sống trong địa ngục sợ hãi đã hoàn toàn vô ích. Nếu tôi cứ chú tâm học hành, thì chắc chắn sẽ đậu, và đậu cao hơn, vì bao nhiêu sinh lực đáng lẽ dành cho chuyện học hành tiến bộ đã bị mối lo âu, sợ hãi hão huyền kia làm tiêu mòn đi.

Rõ ràng là hễ có mục tiêu, là có phiền não, khổ đau và sợ hãi. Càng có nhiều mục tiêu và càng gắn bó với chúng thì phiền não, khổ đau và sợ hãi càng nhiều. Nhưng trong cuộc sống không có mục tiêu, thì không được. Vậy làm sao đây? Có thể nào vẫn theo đuổi mục tiêu, mà vẫn giải thoát được không?

– Sống là phải theo đuổi mục tiêu này, mục tiêu nọ. Một người trong cuộc sống thường có nhiều mục tiêu, ngắn hạn có, mà dài hạn cũng có. Mục tiêu là cột mốc để định hướng mọi hoạt động của con người. Nếu không có cột mốc, thì hoạt động của ta sẽ vô nghĩa, vô ích và rối loạn, rốt cuộc chẳng thành đạt được gì. Một khi đã có cột mốc rồi, thì ta cứ việc chú tâm vào các hoạt động hàng ngày của ta, nghĩa là ta cứ sống cuộc sống bình thường trong tinh thần tỉnh giác, để tư tưởng không có dịp len vào, mà phóng chiếu ra những hình ảnh liên hệ xa gần đến mục tiêu, tạo nên những mừng vui, khổ đau, hay sợ hãi hão huyền. Như trường hợp cậu bé học lớp nhất bậc tiểu học, trong câu chuyện vừa kể trên. Khi đã biết là cuối năm học phải đậu được bằng Tiểu học Pháp Việt, thì hàng ngày hãy chú tâm vào mọi sinh hoạt thường nhật như học bài, làm bài, cắp sách đến trường, nghe lời thầy giảng, hay những sinh hoạt khác như thể dục, thể thao, vui chơi họp bạn, thăm viếng người thân v.v… chứ đừng để tâm rời bỏ những sinh hoạt ấy mà phóng chiếu ra những hình ảnh tệ hại về cuộc đời một kẻ hỏng thi, mà sợ hãi không đâu, làm cho thần lực hao mòn, tinh thần bải hoải, suy thoái. Như thế, dù có mục tiêu mà vẫn không có mục tiêu, và lo âu, sợ hãi sẽ hết đường tác oai, tác quái.

Hơn nữa, ta nên biết rằng, khi có mục tiêu thì ta cứ việc làm hết sức mình, còn đạt hay không đạt mục tiêu chẳng phải do ta. Nếu hội đủ thuận duyên thì đạt. Nếu gặp nghịch duyên thì không. Nhưng thuận duyên, nghịch duyên đến hay không đến thì ta không thể nghĩ bàn. Khổng học cũng nói: “Tận nhân lực mới tri thiên mệnh”, nghĩa là khi đã làm hết sức mình, ta mới biết được mệnh trời”. Người Tây phương cũng nsoi: “Man propose, God disposes”, tức mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Là thân phận con người, ta đâu có khẳng định được gì về tương lai. Thành hay bại là do mệnh trời, một yếu tố không thể nghĩ bàn. Những ai khẳng định sẽ đạt mục tiêu này, mục tiêu nọ trong tương lai, đều là những kẻ đại ngôn. Tương lai không thuộc về ta, không nằm trong tầm tay của ta. Mọi đều suy tưởng tương lai đều là ảo tưởng.

Ta thường nhất định cho rằng, đạt mục tiêu là thành công, là may. Không đạt là thất bại, là rủi. Nhưng không có cái may nào mà không có nhân rủi tiềm phục và cũng không có cái rủi nào mà lại không có mầm may ẩn tàng, y như chuyện Tái ông thất mã. Thật ra, chẳng làm gì có rủi may, thành bại. Nghiệp, duyên như thế, thì sự việc diễn ra như ậy, chứ không thể khác được. Rủi, may, thành, bại chỉ là trò chơi quen thuộc, độc hại của tư tưởng đẩy ta vào phiền não, khổ đau và sợ hãi không cùng.

Có thể hành đạo giải thoát và đồng thời cầu phước, cầu huệ được không?

– Hành đạo để cầu mong một điều gì lớn nhỏ ở tương lai, hay nói khác đi, người hành đạo hễ có bất cứ một tham cầu nào đều sa vào vòng lệ thuộc của không gian, thời gian, tức phải chịu sự chi phối của tư tưởng thì không thể giải thoát được. Hơn thế, tư tưởng là một tác nhân làm tiêu hao, làm soi nmòn thần lực con người. Thần lực bị soi mòn, tiêu hao thì huệ không có cơ khai mở. Hay nói khác đi, tư tưởng tức vọng tâm, là cái tâm ô nhiễm, loạn động chẳng bao giờ đưa tới huệ giác. Đức Phật đã dạy chỉ khi nào tâm tịnh thì huệ mới khai. Tâm tịnh, hay tâm thanh tịnh là tâm hoàn toàn vắng bóng phiền não, khổ đau và sợ hãi. Ngài J. Krishnamurti cũng nói: “Be ending of sorrow is the beginning of wisdom”. Tạm dịch là sự chấm dứt phiền não, mở đường đi tới huệ giác.

Phiền não, khổ đau và sợ hãi chỉ chấm dứt khi tư tưởng không còn. Phi tư tưởng tức là phi ngã. Một khi ngã đã “phi” rồi, thì tình yêu thương chân thật mới ló dạng (không phải laọi yêu thương sặc mùi vị ngã, đầy tính toán, so đo, cân nhắc, khi có mặt của tư tưởng, mà ta thường gặp hàng ngày). Với cái tâm thanh tịnh, sáng suốt, với tình thương yêu chân thật của một người đạt đạo, ta sống và hành xử việc thế gian thì chẳng cầu phước báo cũng khôn lường. Nói ngắn lại, hành đạo giải thoát thì vừa có huệ vừa có phước, còn tu để cầu phước báo thì không giải thoát được và cũng chẳng bao giờ lại có huệ cả.

Trong Phật học, có nói đến trình tự: giới, định, huệ, nghĩa là chỉ có huệ khi có giới và định.

Giới là gì?

Giới không chỉ là vấn đề tội phước trong việc tuân thủ những điều răn cấm của giáo luật, mà giới còn là giữ cho tâm thanh tịnh, không ô nhiễm. Muốn giữ cho tâm thanh tịnh, không ô nhiễm thì chỉ có một cách là thực hành chánh niệm. Chánh niệm là định, mặc dù định có thể không là chánh niệm. Tâm định là tâm sạch bóng vọng niệm. là tâm không loạn, là tâm thanh tịnh. Tâm tịnh thì huệ khai. Như thế thì hễ có giới, là có định, có huệ. Tuy ba, nhưng chỉ là một. Sự liên lạc giữa giới, định, huệ chặt chẽ đến chỗ như nhất thể, nhất phiến. Tóm lại, chỉ có giới, có định thì mới có huệ. Huệ chẳng phải cầu mong mà có được. Còn cầu huệ thì chẳng bao giờ huệ đến.

Hành đạo có cần tụng đọc kinh sách không?

– Chúng ta ai cũng quan niệm là hành đạo phải tụng đọc kinh sách. Theo đạo nào thì tụng đọc kinh sách của đạo ấy. Chúng ta thường hết lòng kính phục những người hiểu thuộc kinh sách. Ai hễ cất lời là viện dẫn kinh nọ, luận kia để làm cơ sở lý luận thì được người đời coi là đạo cao, đức cả. Vì chúng ta quan niệm kinh sách là đạo. Đạo không thể tìm đâu ngoài kinh sách. Hiểu và thuộc nằm lòng hết kinh sách là đạt đạo. Chẳng hạn như trong Phật giáo mà hiểu thuộc hết kinh sách, là có được tri kiến của Phật, là thành Phật rồi. Quan niệm này, hoàn toàn sai lầm. Đức Phật chẳng đã từng nói là tất cả những gì ngài thuyết giảng trong bấy nhiêu năm chỉ là nắm lá trong tay ngài, còn những gì ngài hiểu biết thì như lá cây trong rừng.

Như vậy, tri kiến của Phật nhất định không phải chỉ gói gọn trong mấy bộ kinh. Và ngài cũng lại nói nội dung kinh sách chỉ là cái ngón chỉ trăng. Trăng tượng trưng cho đạo. Vậy kinh sách chẳng phải là đạo.

Ngài Lục tổ Huệ Năng không biết chữ, nên không đọc bất cứ kinh sách nào, mà sao ngài cũng đạt đạo và trở thành một bậc đại giác. Nếu nói ngài Huệ Năng chỉ là một trường hợp đặc biệt, có phải ai cũng như ngài Huệ Năng đâu. Vậy chứ trong Thiền tông, rất nhiều thiền giả đã đạt đạo trong lúc Thiền tông chủ trương “bất lập văn tự”, và các thiền giả đạt đạo cũng chẳng có mấy ai là hiểu, thuộc tam tạng: Kinh, Luật, Luận.

Tổ Bồ Đề Đạt Ma trong thiên “Huyết Mạch Luận” của sách “Thiếu Thất Lục Môn” cũng nói: “Dầu có giỏi nói được ngàn kinh, muôn luận mà không thấy tánh thì vẫn là phàm phu, chẳng phải là pháp Phật. Đạo lớn kín sâu, không thể nói cho hiểu. Kinh điển dựa vào đâu mà vói tới? Chỉ cần thấy tánh thì dầu không biết một chữ vẫn được Đạo”(2).

Thiền tông Nhật Bổn có câu chuyện khá phổ biến sau đây: Thiền sư Mu-Nan thấy mình đã già yếu muốn truyền cho Shoju, một đệ tử xuất sắc và đã đạt đạo, một cuốn sách quý. Cuốn sách này lưu truyền từ thầy này qua thầy khác, đã bảy đời rồi, và chính Mu-Nan cũng đã bổ túc nhiều điều trong cuốn sách này. Shoju không nhận và thưa với thầy: “Con đã thọ nhận Thiền không văn tự của thầy, con mãn nguyện rồi, xin thầy cứ giữ lấy cuốn sách ấy”. Mu-Nan cứ đưa cuốn sách quý ép Shoju phải nhận. Shoju nể tình thầy, cầm lấy cuốn sách nhưng ngay sau đó đã vứt cuốn sách vào lò lửa trước mặt, Shoju đã biểu lộ một tinh thần tự do đến tuyệt đối của người đã đạt đạo, đã giải thoát không còn bị ràng buộc vào bất cứ điều gì, kể cả kinh sách.

Kinh sách là cây đuốc sáng rực, soi đường cho nhân loại tối tăm. Kinh sách là kho tàng vô cùng quý báu. Đúng là “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”. Nhưng vai trò của kinh sách cũng chỉ là cái ngón, cái bè. Ngón và bè là phương tiện. Phương tiện là để đạt cứu cánh. Vì cứu cánh mới có phương tiện. Nếu ta chấp phương tiện đến chỗ quên cả cứu cánh, thì rốt cuộc cứu cánh không đạt, mà phương tiện cũng trở nên vô ích. Cũng như cái bè kia là để sang sông. Nay ta cứ ngồi ôm chặt lấy bè, thì sống không sang được, mà bè rồi cũng bỏ đi.

Đọc kinh để nương vào kinh mà tìm đạo thì nên. Còn đọc kinh mà vướng mắc vào kinh thì đừng. Vì vướng mắc vào kinh sách cũng chẳng khác gì vướng mắc vào những chuyện trên cõi đời này, đều là phiền não, khổ đau và sợ hãi cả.

Hành đạo có cần phải xuất gia, thế phát, quy y, mặc bận trang phục đặc biệt không?

– Hành đạo cốt ở việc tịnh hóa cái tâm. Muốn tịnh hóa cái tâm, thì phải chú tâm vào mọi hoạt động của thân, tâm. Chú tâm là hành đạo, không chú tâm không phải là hành đạo. Bất cứ làm việc gì, hễ có chú tâm đều là hành đạo giải thoát cả. Hành đạo không cần phải gia nhập một tổ chức nào, cũng không cần phải tuân hành một thủ tục hay một hình thức nào. Xuất gia, thế phát, quy y, mặc bận trang phục đặc biệt là điều kiện hình thức khi muốn trở thành một tu sĩ Phật giáo, một thành viên của tổ chức Tăng lữ Phật giáo. Hình thức là hình thức. Hành đạo là hành đạo, hai bên chẳng có một mối liên hệ nào cả. Đôi khi, chỉ vì chúng ta cứ tự cột ràng vào hình thức này, hình thức nọ, nên hình thức mới trở thành vướng mắc mà thôi.

Hành đạo có cần sự hướng dẫn của một tôn sư, hay một tổ chức, và có cần phải tuân thủ một pháp môn nào không?

– Ta vẫn nói học đạo phải tầm sư, hay “không thầy đố mày làm nên”. Làm gì cũng phải có thầy, huống chi học đạo. Nhưng thầy ở đây nên được quan niệm rộng rãi. Có thể là một vị cao minh, hay tài liệu, kinh sách quý giá nào đó chỉ cho ta rõ lý đạo. Biết lý đạo rồi, thì hành đạo là việc của riêng ta. Ta phải độc hành. Chính ta mới làm được, chứ không thể cậy nhờ vào bất cứ ai, bất cứ tổ chức nào trong giai đoạn này.

Thiền tông Trung Hoa có lưu truyền câu chuyện dưới đây:

Một thiền sinh mới nhập thiền viện có nói với thiền sinh huynh trưởng như sau: “Đàn em mới mẻ chắc hẳn là còn nhiều khó khăn, bở ngỡ, xin đàn anh cảm phiền chỉ bảo, giúp dùm cho”. Thiền sinh huynh trưởng đáp: “Em cứ an tâm. Anh sẵn sàng giúp giúp em bất cứ chuyện gì khi em yêu cầu. Nhưng có một vài chuyện em phải tự làm lấy. Anh dù muốn cũng không có cách nào giúp dùm em được. Đó là:

- Ăn uống thì em phải ăn uống lấy.
- Ngủ thì em phải ngủ lấy.
- Tiêu hóa, bài tiết thì em phải tiêu hóa, bài tiết lấy.
- Và hành đạo thì em phải hành lấy”.

Đúng vậy, hành đạo là biết mình từng phút, từng giây. Vậy còn ai biết mình hơn chính mình nữa. Chẳng lẽ ta lại phải nhờ đến sự chỉ dẫn, sự giúp đỡ của một ngoại nhân hay một tổ chức nào đó để ta mới có thể biết được chính ta sao. Không cần phải hạ mình làm môn đệ của bất cứ ai, cũng chẳng cần coi ai là một tôn sư, để rồi ngày tháng sống dưới chân thầy, coi thầy là khuôn vàng thước ngọc, nhất cử, nhất động đều bắt chước thầy. Tương quan này không mang tính giải thoát.

Về lý đạo, thì không cần phải tìm hiểu, nghiên cứu hay nhờ ai giảng giải cho hết bộ kinh này, pho luận khác, mà chỉ một câu kinh, một bài kệ cũng đã đủ rồi (như bài trên có nói). Dĩ nhiên “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”(3). Ta hết sức tôn kính và trân trọng những vị tu sĩ, những bậc thiện tri thức, những tài liệu sách vở đã chỉ cho ta, dù chỉ một lời, để ta biết đường vào đạo. Với Phật giáo, thì thật quả kinh sách như rừng, nhưng chỉ một bài kệ tứ tuyệt dưới đây chẳng hạn, cũng giúp cho hành giả một hướng đi rốt ráo rồi:

“Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo”(4).

Phật trước, Phật sau (chư Phật), ngoài việc dạy làm lành lánh dữ, còn truyền dạy một điều quan trọng nữa là “tự tịnh kỳ ý”. Căn ý mình phải do chính mình tịnh lấy. Chứ không thể trông mong vào sự giúp đỡ bên ngoài của bất cứ ai, hay bất cứ một tổ chức nào. Nếu ta có may mắn gặp được một vị Phật bằng xương bằng thịt ngay cõi đời này, thì ngài cũng chẳng giúp gì được ta, trong việc tịnh hóa căn ý của ta.

Huệ Khả trong buổi đầu yết kiến Tổ Bồ Đề Đạt Ma để cầu đạo, có xin Tổ an giúp cái tâm. Tổ nói với Huệ Khả hãy đưa cái tâm cho Tổ để Tổ an cho. Chừng nào ta có thể đưa cái tâm ta cho người khác an dùm, thì chừng ấy ta mới thật sự cần đến sự giúp đỡ của một tôn sư, hay một tổ chức nào đó.

Ngài J. Krishnamurti, người được Tây phương tôn xưng là ông thầy của thế giới(5), là một khuôn mặt cao cả nhất của nhân loại(6), suốt bao nhiêu năm giảng thuyết ở nhiều nơi, chẳng bao giờ ngài lại tự nhận mình là tôn sư, cũng không muốn ai coi mình là tôn sư, và cũng không hề nhận ai là môn đệ. Trong những buổi giảng thuyết, mà ngài thường chỉ gọi là những buổi nói chuyện(7), ngài thường nhấn mạnh rằng, ngài chỉ nói với tư cách một người bạn chuyện trò với những người bạn. Đúng là tinh thần bình đẳng đến triệt để của một bậc đại giác.

Hành đạo là nhằm tịnh hóa cái tâm. Muốn tịnh hóa cái tâm thì hãy sống trọn vẹn với cuộc sống, nghĩa là hãy chú tâm vào mọi hoạt động của thân, tâm. Còn muốn gọi là pháp môn, hay là gì, thì cũng cứ được. Không nên để bị kẹt vào ngôn ngữ, văn tự làm gì.

Có phải người học rộng biết nhiều thì hành đạo có hiệu quả hơn những người khác không?

– Người học rộng biết nhiều, đa văn, quảng kiến, là người có một cái kho to lớn tích lũy rất nhiều những kiến thức đã tom góp được trong quá khứ. Họ là một loại bồ chữ. Hay nói hiện đại hơn, họ là một loại máy điện toán đời mới, tích trữ được cả hàng tỷ dữ liệu (data). Dĩ nhiên những kiến thức mà họ có được đều là loại kiến thức duyên sanh, vay mượn, nghĩa là phải học tập, phải đọc sách vở, phải nghiên cứu tài liệu mới có được. Nhưng con người vốn có một kho báu của chính mình, đó là cái trí thông minh siêu đẳng, tuyệt luân mà Phật học gọi là huệ trí hay huệ giác. Với huệ trí này con người sẽ biết cùng khắp, không gì không biết. Cái biết tự có, không phải loại vay mượn duyên sanh. Một cái biết không thông qua lục căn, ngũ uẩn(8). Huệ trí, theo Phật học, chỉ khai mở khi tâm thanh tịnh. Tâm tịnh thì huệ khai. Tâm chỉ tịnh khi tư tưởng đã hoàn toàn ngưng dứt. Mà tư tưởng là gì? – Chính là con đẻ của kiến thức và kinh nghiệm tích lũy trong ký ức.

Những kiến thức vay mượn duyên sanh rất hữu ích cho cuộc sống, và rất quan trọng trong lãnh vực khoa học kỹ thuật. Ngày nay cuộc sống con người trên trái đất đã được cải thiện rõ rệt, đặc biệt là trong thế kỷ hai mươi này. Trong mọi lãnh vực sinh hoạt của con người, như ăn uống, di chuyển, liên lạc, ý tế, nhà ở, y phục v.v… đều có những tiến bộ rõ rệt làm cho đời sống con người có nhiều tiện nghi hơn. Âu cũng là nhờ vào sự tích lũy kiến thức của con người trong quá khứ.

Những kiến thức duyên sanh vay mượn này cũng vô cùng quan trọng, trong lãnh vực hoằng dương Phật pháp. Trong Phật học chẳng hạn, thì chính các vị luận sư, các vị học giả Phật giáo đã đóng góp nhiều nhất vào việc truyền bá Phật pháp.

Nhưng trong lãnh vực tâm lý, thì “sự đời biết ít, phiền não ít”, nghĩa là kiến thức tích lũy là một trở ngại cho người hành đạo giải thoát. Trong Phật học thì các kiến thức và kinh nghiệm tích lũy trong ta được gọi là tập khí. Những người hành đạo giải thoát, theo Phật học, là phải loại trừ tập khí hay giải thoát tri kiến. Loại trừ được tập khí là ngưng dứt được tư tưởng, vì tập khí là mẹ đẻ của tư tưởng. Ngài J. Krishnamurti cũng hô hào giải trừ kiến thức (Freedom from the known). 

Tại Trung Hoa, có một lần, một thiền sinh trong một thiền viện được tiếng là người hiểu rộng biết nhiều. Mỗi lần trò chuyện với thầy, với bạn, thiền sinh này thường có ý phô trương cái vốn hiểu biết rộng rãi của mình. Một hôm thiền sư nói với thiền sinh ấy như sau: “Con hãy về vứt tất cả những hiểu biết ấy cho chó ăn, rồi hãy trở lại đây”.

Phật học cũng có nói đến sở tri chướng, tức là những trở ngại do kiến thức và kinh nghiệm tích lũy gây ra cho người hành đạo. Sở tri chướng là một loại nhà tù do kiến thức tạo ra để nhốt cẳng, cầm chân những bước đi giải thoát.

Trong Phật học xưa nay vẫn phân biệt hai dòng: dòng chuyên học hay giáo môn và dòng chuyên tu hay quán môn. Dòng chuyên học gồm các vị học giả uyên bác, hiểu rộng, biết nhiều, chuyên triển khai giáo lý Phật giáo. Với các vị này, thì tích lũy kiến thức càng nhiều càng tốt. Đây là những vị luận sư và đại luận sư. Các vị này chưa hẳn là đạt đạo. Còn dòng chuyên tu thì gồm các vị hành giả tuy học hành chẳng có là bao, thậm chí còn có vị mù chữ như ngài Lục Tổ, nhưng chỉ nhờ hành đạo mà đạt đạo, và trở nên hoàn toàn giải thoát. Khi đã đạt đạo, thì một lúc nào đó huệ trí của các vị mở ra và sự hiểu biết của các vị lại vô song. Cái hiểu biết tự có và cùng khắp, mà thuật ngữ Phật học gọi là chánh biến tri, một sự hiểu biết mà trong hang các vị luận sư và đại luận sư không ai sánh kịp. Đó là trường hợp các vị Tổ, các vị thiền sư. Nói tóm lại, kiến thức chẳng cần gì cho việc hành đạo, nếu không muốn nói kẻ hiểu rộng biết nhiều còn tự tạo ra một loại nhà tù, nhà tù của sở tri chướng, để giam hãm mình, chưa biết đến bao giờ mới giải thoát được.

GHI CHÚ:

(2) Lời của dịch giả Trúc Thiên trong “Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất”.

(3) Người dạy ta chỉ một chữ hay nửa chữ cũng là thầy ta.

(4) Bài kệ dịch ra như sau:

Mọi việc ác không làm
Sẵn sàng làm mọi điều lành
Tự trong sạch hóa cái ý
Đó là lời dạy của chư Phật.

(5) Dịch từ chữ “World Teacher”.

(6) Dịch từ nhóm chữ “La plus haute figure du monde”.

(7) Dịch từ chữ “talk”.

(8) – Lục căn là: tai, mắt, mũi, lưỡi, thân và ý.

- Ngũ uẩn là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức (đã giải thích ở phần cước chú của bài hai).

 

Hành đạo có cần cố gắng không?

– Trong Phật học có nói đến tinh tấn. Hành đạo phải tinh tấn. Trong lục độ(9) (sáu phép tu của Đại thừa) thì có một là tinh tấn, và trong Bát chánh đạo(10) thì có một là chánh tinh tấn. Tinh tấn để loại trừ lười biếng, giải đãi. Tinh tấn là sự chú tâm chuyên cần. Các tác giả Tây phương dịch tinh tấn làapplication, mà application được định nghĩa là assiduos attention, nghĩa là một sự chú tâm siêng năng, không xao lãng. Hành đạo là chú tâm chuyên cần về mọi hoạt động của thân, tâm. Thân ta đi, đứng, nằm, ngồi v.v… ta chú tâm vào đi, đứng, nằm, ngồi v.v… Tâm ta buồn vui, giận dỗi, oán thù v.v… ta chú tâm vào buồn vui, giận dỗi, oán thù v.v… và như thế có đòi hỏi một cố gắng nào đâu. Chỉ có cố gắng khi nào ta ham muốn thành đạt một điều gì đó mà điều ấy lại vượt ra ngoài khả năng và phương tiện sẵn có. Trước khi có cố gắng thường phải có lượng định, tính toán, để xem sự cố gắng liệu có mang lại hiệu quả mong muốn chăng. Chẳng ai dại gì mà lại cố gắng theo đuổi một mục tiêu vượt quá xa khả năng và phương tiện khả dụng. Nói đến cố gắng, là nói đến ham muốn, nói đến tính toán, so đo. Như thế, có cố gắng là có mặt của tư tưởng. Tư tưởng đã xen vào, thì đạo ắt đi ra. Hành đạo phải hồn nhiên. Hồn nhiên là đạo, mọi cố gắng đều không cần thiết.

Hành đạo có cần phải tìm nơi am thanh cảnh vắng, hay núi động khuất nẻo không?

– Hành đạo là tìm hiểu chính mình (self understanding). Muốn hiểu biết chính mình thì phải phát hiện, nghĩa là phải có tấm gương soi rọi. Tấm gương ấy là sự tương giao trong xã hội. Ngài J. Krishnamurti gọi tâm gương ấy là “mirror of relationship”. Có sống giữa chợ đời, mới có các vấn đề của cuộc sống nảy sinh buộc ta phải ứng phó. Qua cung cách ứng phó với các vấn đề của cuộc sống, ta mới thấy biết được ta, ta độc ác hay nhân từ, ta tham lam, đố kỵ, ta căm ghét, oán thù, hay trìu mến, yêu thương, ta thành thật hay dối trá, ta vị tha hay vị kỷ. Lấy ánh sáng của tâm thay vì soi rọi các đối tượng ở ngoài, ta quay vào soi rọi chính tâm ta, nhất là những khi có các kích thích của chợ đời, của cuộc sống, để ta biết ta đến kẽ tóc chân tơ. Biết mình đến nơi, đến chốn, không mảy may thiếu sót, chính là hành đạo đến chỗ rốt ráo, là giải thoát vậy.

Còn sống trên non cao, động vắng, cách biệt với xã hội, mà không hiểu biết mình thì tâm tuy có an, nhưng cái an ở đây là do một yếu tố ngoại lai mang lại. Tâm ta phải nương dựa vào cảnh non động vắng vẻ để được an, y hệt cái an của kẻ dùng thuốc an thần. Tâm sẽ hết an khi thuốc hết hiệu lực. Nó không phải là cái an của một người hiểu biết mình từng phút, từng giây. Người hiểu biết mình từng phút, từng giây có thể an được tâm mình ngay giữa chợ đời, như khi đang mua sắm trong một cửa tiệm đông người, hay đang ngồi trên một xe buýt nhiều khách.

Người đời thường nói: “Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa”. Tu tại gia và tu chợ là tu ngay trong cuộc sống, cái tu của một người sinh sống, làm ăn bình thường trong xã hội như mọi người khác. Có người cho rằng, câu trên có ý nói rằng tu tại gia và tu chợ khó hơn tu chùa. Nhưng không phải vậy. Dù ở môi trường nào (tại gia, giữa chợ, trong chùa) nếu ta hiểu biết ta đầy đủ, miên mật thì ta vẫn tự tại, vẫn giải thoát.

Từ hành đạo đến đạt đạo, có phải qua một quá trình không?

– Ta thường cho rằng, hành đạo phải có một quá trình lâu dài, trải qua nhiều đời, nhiều kiếp, chứ chẳng ai bỗng chốc, chiều hôm sớm mai lại đạt đạo được. Ta phải chiến đấu hàng giờ, hàng ngày để tu tâm, sửa tánh loại bỏ dần các thói hư tật xấu, dần diệt tham, sân, si, để rồi một ngày nào đó, không biết là bao giờ, các thói hư tật xấu không còn, tham, sân, si cũng sạch bóng, ta trở nên thánh thiện. Và tùy mức độ thánh thiện đã đạt được ta chứng đạo quả này, đạo quả khác.

Như thế, hành đạo có nghĩa là hành giả phải trải qua một cuộc chiến đấu kiên trì, dài lâu đến bất tận, không kém phần gay go, trắc trở để thay đổi cấu trúc tâm lý hiện có bằng một cấu trúc tâm lý hoàn toàn mới. Thành ra trong suốt quá trình hành đạo, tâm ta luôn luôn là một bãi chiến trường, luôn luôn có sự xung đột giữa hai thế lực cũ và mới. Nói đến chiến trường, đến xung đột, là nói đến xáo trộn, rối loạn, sóng gió, trái với tôn chỉ hành đạo giải thoát là bình thường hóa cái tâm. Đã mấy thiên niên kỷ rồi, con người theo tôn giáo này, tôn giáo nọ, hành trì giáo lý này, giáo lý nọ, mà cấu trúc tâm lý của con người có gì thay đổi đâu, nghĩa là vẫn tham, sân, si như thuở nào đây. Ngài J. Krishamurti cũng xác nhận rằng: “Chẳng làm gì có tiến bộ tâm lý”(11).

Để an định cái tâm thì không có cách nào khác là phải hiểu biết nó. Muốn hiểu biết nó thật đầy đủ, rốt ráo, thì phải tỉnh thức. Nghĩa là, khi tâm ta khởi một niệm nào, là ta đều biết và biết ngay lúc niệm ấy mới ló dạng. Nếu một niệm nào khởi mà sau một thời gian nào đó, ta mới biết, thì không phải là tỉnh thức nữa. Bất kỳ một niệm nào khi vừa mới xuất hiện mà ta đã biết và theo dõi, thì nó biến ngay. Và nhớ là chỉ theo dõi thôi, chứ đừng phân tích phê bình gì cả. Đành rằng niệm ấy có thể tái xuất hiện nơi tâm ta nhiều lần sau đó, nhưng dù có trở lại mà ta tỉnh thức, thì nó cũng lụi êm. Tỉnh thức là sống trọn vẹn với cuộc sống, hay sống trọn vẹn với hiện tiền. Một khi sống trọn vẹn với hiện tiền, là lập tức có giải thoát, một sự giải thoát trọn vẹn, là đạt đạo, chứ không phải qua một quá trình nào cả. Hễ còn nói tới quá trình, là còn có thời gian, không gian, nghĩa là còn có tư tưởng, thì chăng làm sao mà giải thoát được.

Có người cho rằng, hành đạo giải thoát chỉ cần niệm lục tự Di Đà (Nam Mô A Di Đà Phật) là đủ, có đúng không?

– Làm gì mà có chú tâm, đều là hành đạo giải thoát cả. Vậy, chú tâm niệm Phật đúng là hành đạo. Chú tâm niệm Phật có nghĩa là khi miệng niệm thì tâm cũng niệm. Miệng và tâm luôn luôn đồng điệu. Nhưng cuộc sống dòi hỏi, ta phải có các hoạt động đa dạng, lúc làm việc này, lúc làm việc khác, khi ăn uống vui chơi, khi viết thư, đọc sách v.v… chứ đâu có thể nào suốt ngày ngồi niệm Phật được, và ta cũng không thể nào cùng một lúc lại có thể chú tâm vào hai hoạt động song song. Đã chú tâm niệm Phật, thì không thể chú tâm vào các hoạt động khác được. Vậy tốt hơn hết là ngoài những lúc rảnh rỗi chú tâm niệm Phật, ta cứ chú tâm vào mọi hoạt động đa dạng của thân, tâm. Như thế, là sống trọn vẹn với cuộc sống, là hành đạo. Với lề lối này, ta có thể hành đạo ngay trong lúc làm công việc hành ngày, hành đạo toàn thời gian một cách hồn nhiên, nghĩa là hành đạo mà như không hành vậy.

Nói tóm lại, hành đạo giải thoát là sống phi thời gian. Sống phi thời gian là sống trọn vẹn với hiện tiền, là sống trọn vẹn với cuộc sống, và cũng là sống với chân kiện. Vì chỉ có những gì ở hiện tiền mới là chân mà thôi. Còn những gì ở quá khứ, ở tương lai đều là vọng, là huyễn cả. Hành đạo như thế cũng có nhiều tên gọi khác nhau. Trong Phật học gọi là chánh niệm(12). Chánh niệm có nghĩa là sống với hiện tiền, nên khi ta rời bỏ hiện tiền, thì thuật ngữ Phật giáo gọi là thất niệm. Cũng có thầy gọi là tỉnh thức. Hành đạo giải thoát là luôn luôn tỉnh thức trước những gì xảy ra trước mặt ta, hoặc trong tâm ta, ta điều thấy biết. Và ta thấy biết chúng y như chúng đang là, không phân tích, không phê bình, lên án hay tán dương. Đặc biệt là đối với những hiện tượng trong tâm giới mà ta nhận biết chúng ngay khi chúng vừa mống khởi, thì chúng sẽ tự nhiên tan biến. Rất có thể chúng sẽ trở lại, nhưng nếu ta tỉnh thức miên mật, thì dù có trở lại, chúng cũng lại tự động ra đi, y như một kẻ gian ban đêm đột nhập vào nhà ta mà thấy ta còn thức, thì hắn phải tìm đường tháo thân, chứ đâu có thao túng và cướp phá gia trang của ta được, như khi ta ngủ say bất tỉnh. Và một điều quan trọng cần nhớ, là ta chỉ cần biết các hiện tượng tâm giới ngay từ lúc chúng mới ló dạng và chú tâm theo dõi chúng, chứ đừng bao giờ tìm cách loại trừ, tiêu diệt chúng.

Ngài J. Krishnamurti thì gọi cách hành đạo này là “constant awareness”, tạm dịch là sự tỉnh giác thường hằng.

Hành đạo giải thoát là tìm hiểu cái tâm, lấy ánh sáng của tâm soi rọi lại tâm để nhận biết, ngay từ giây phút khởi đầu, các hiện tượng tâm giới, nên Phật học gọi là hồi quang phản chiếu. Hồi quang phản chiếu được coi là một pháp môn cao tột của Phật giáo.

Lại có thầy gọi hành đạo là thực hành phép lục hòa(13), mà lục hòa ở đây có nghĩa là sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) hòa hợp với nhau.

Theo Phật học thì mỗi con người có sáu căn hay sáu giác quan. Trong sáu giác quan này thì năm (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) luôn luôn chỉ sinh họat ở hiện tiền, không biết gì đến quá khứ và tương lai. Mắt ta không nhìn được những gì ở quá khứ và tương lai, mà chỉ nhìn được những gì ở hiện tiền. Tai ta không nghe được những âm thanh trong quá khứ hay âm thanh ở tương lai, mà chỉ nghe được âm thanh ở hiện tiền. Ba căn kia cũng vậy. Chỉ riêng có ý căn thì luôn luôn chao động, y như một con lắc đu đưa liên tục giữa quá khứ và tương lai. Hành đạo giải thoát là đưa ý căn về hòa hợp với năm căn kia, nghĩa là ý căn cũng có một sinh hoạt phi thời gian, một sinh hoat ở hiện tiền như năm căn kia.

Hành đạo giải thoát tuy có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng tựu trung chỉ có một nguyên tắc là phi thời gian. Xin nhắc lại thời gian đây là thời gian tâm lý. Phi thời gian tức phi tư tưởng. Tư tưởng đã “phi” rồi thì còn đâu là cội nguồn phiền não, khổ đau và sợ hãi nữa.

Nói khác đi, tư tưởng một khi ngưng dứt thì thế gian này không còn là khổ hải nữa là lập tức là cõi giải thoát, là Niết Bàn đối với các hành giả. 

GHI CHÚ:

(9) Lục độ là: Bố thí, trì giới, nhẫnn hục, tinh tấn, thiền định, trí huệ.

(10) Bát chánh đạo là: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.

(11) There is no psychological evolution.

(12) Các tác giả Tây phương dịch chánh niệm là “right mindfulness”.

(13) Phép lục hòa trong Phật học là:

– Thân hòa đồng trú: Cùng ở với nhau một nơi hòa thuận.
- Giới hòa đồng tu: Cùng hòa thuận vâng giữ một giới luật.
- Khẩu hòa vô tranh: Cùng tránh xử dụng ngôn ngữ bất hòa.
- Lợi hòa đồng quân: Cùng hòa thuậ chia sẻ những điều kiện vật chất đang có.
- Kiến hòa đồng giải: Cùng hòa thuận chia sẻ những kiến thức và quan niệm.
- Ý hòa đồng duyệt: Cùng dung hợp mọi ý kiến dị biệt để mọi người đều vui vẻ.

Bài bốn:
TƯ TƯỞNG

Có bao giờ bạn lắng nghe tiếng nói lao xao trong nội tâm bạn không? Tiếng nói này là những lời phân tích, so sánh, đánh giá, lên án, tán dương, bênh vực, bào chữa, đả phá, miệt thị, lo trước, tính sau, bày mưu thiết kế… Khi bạn oán thù, căm ghét ai, tiếng nói ấy bới lông tìm vết, đục cây tra cành, xuyên tạc, bóp méo, nói lên phong cách này đường lối nọ, để gây khó dễ, để ám hại không những đối tượng mà còn cả những người có liên hệ xa gần với đối tượng nữa. Khi bạn yêu thương ai thì tiếng nói ấy tô son, điểm phấn, bênh vực, bao che, ca tụng, đề cao thậm chí thần thánh hóa không những người mà bạn yêu thương mà còn cả thân nhân họ hàng người ấy nữa. Nếu được ghi chép lại đầy đủ, thì chắc chắn bạn sẽ phát hiện ra, qua tiếng nói ấy, một thế giới rối loạn, điên đảo đến giật mình. Hèn chi mà thế giới bên ngoài chẳng rối loạn, điên đảo. Có những lúc bạn ngồi một mình cạnh chén trà hay ly cà phê, hoặc thơ thẩn dạo bước bên bờ sông vắng, hay trong công viên lúc ít người, bề ngoài trông bạn nhàn tản, an lạc như một tiên ông, nhưng có biết đâu bề trong tiếng nói kia ồn ào như nhóm chợ, làm cho bạn phiền não, khổ đau và sợ hãi khôn cùng.

Cái khía cạnh nổi bậc nhất của tiếng nói ấy là luôn luôn sặc mùi tham lam, vị kỷ. Suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ trong một ngày, nếu không thì thôi, chứ còn đã cất lời lên thì toàn là những tính toán vị kỷ. Đố các bạn tìm ra trong chuỗi bép xép tràng giang đại hải của tiếng nói ấy một lời, và chỉ một lời thôi, mang tính vị tha. Đôi khi có những lời thoạt nghe có vẻ vị tha, nhưng suy cho kỹ, nghĩ cho cùng thì cũng chẳng vị tha chút nào.

Tiếng nói nội tâm này là kiến thức và kinh nghiệm mà tích lũy trong quá khứ, rồi vì một kích thích nào đó của cuộc sống, của ngoại giới hoặc cũng có thể tự động trồi lên và cất tiếng nói. Nó thường lập đi lập lại những khoái lạc, khổ đau và sợ hãi đã qua. Đúng vậy, nó cứ nhắc hoài hoài đến những giây phút đê mê bữa nào, trong đêm ân ái với người yêu; hay bữa ăn ngon tuyệt với với sơn hào hải vị mà bạn đã được long trọng thết đãi trong một dịp may nào đó. Nó cũng nhắc lại những cảnh hiểm nghèo đe dọa tính mạng bạn mà bạn đã may mắn thoát được trong đường tơ, kẽ tóc; những nỗi khốn cùng, cơ cực đã từng dày vò thân xác bạn; những âm mưu thâm độc nhằm làm bại hoại công danh, sự nghiệp, danh dự bạn và những hành động lầm lỡ, thiếu nghĩa, thiếu tình của bản thân bạn đối với người khác v.v… Thật quả không sai, lập đi lập lại là bản chất cố hữu muôn đời của tiếng nói ấy, làm cho bạn luôn luôn phiền não, luôn luôn khổ đau và luôn luôn sợ hãi.

Thế cũng chưa hết, tiếng nói ấy còn xúi dục bạn rượt bắt hay tìm đường tránh né những cái mà nó tô vẽ, đặt bày. Những cái mà nó tô vẽ, đặt bày ấy thường là những trái ngược với quá khứ. Bạn đã và đang nghèo hèn thì tiếng nói ấy lại nói lên một cảnh giàu sang và xúi dục bạn chạy theo nắm bắt. Nếu bạn đã và đang giàu sang thì tiếng nói ấy lại nói đến cảnh sa cơ, thất thế, thấp hèn, nhục nhã và xúi dục bạn phải tìm phương tránh né, loại trừ. Nếu bạn dại dột nghe theo những lời xúc dục ấy thì nhất định bạn sẽ bước chân vào một trình tự đau khổ và sợ hãi không thể tránh được. Tóm lại, tiếng nói ấy lúc nào cũng làm cho bạn phải hao khí, tổn thần và không cho bạn một chút sát na(1) tĩnh lặng, an lạc.

Nếu không có kiến thức và kinh nghiệm tích lũy trong ký ức thì nhất định không có tiếng nói ấy; hoặc có mà bạn đã làm chủ được kiến thức và kinh nghiệm ấy thì tiếng nói kia cũng không thể tự động cất lên bất cứ lúc nào để tác oai, tác quái, giằng xé tâm can bạn, làm bạn phải đắm chìm triền miên trong phiền não, khổ đau và sợ hãi.

Tiếng nói nội tâm ấy chinh là tư tưởng của bạn. Tư tưởng là tiếng nói không có âm thanh, và tiếng nói là tư tưởng có âm thanh vậy. Khi bạn chú tâm lắng nghe tiếng nói nội tâm, tức là bạn hiểu rõ tư tưởng của bạn. Tư tưởng của bạn một khi bạn hiểu biết nó, thì nó tự nhiên ngưng dứt.

Thay vì lắng nghe tiếng nói có âm thanh ở ngoài, bạn quay vào nghe tiếng nói không có âm thanh ở trong. Phật học gọi như thế là “Phản văn văn tự tánh”. Phản văn văn tự tánh chính là tham thiền và được các vị tổ sư gọi là “vô thượng diệu môn”(2).

Khi tiếng nói nội tâm tắt lịm, tức tư tưởng ngưng dứt thì phiền não, khổ đau và sợ hãi không còn, nghĩa là giải thoát vậy. Vì còn tư tưởng là còn có chuyện lập đi lập lại để nuôi dưỡng, để kéo dài những phiền não, khổ đau và sợ hãi đã qua. Và còn tư tưởng là còn chuyện phóng ra những ảo ảnh để ôm ấp, ước mơ hay giật mình run sợ. Ngoài ra, còn tư tưởng là còn có chuyện phân biệt nữa. Hễ có mặt của tư tưởng là lập tức có nhị nguyện đối đãi: đẹp xấu, sang hèn, cao thấp dở hay, thiện ác… Phật học nói: “Nhất niệm khởi thiện ác dĩ phân”(3) là như thế.

Có nhị nguyên là có hai mé. Trụ vào mé nào cũng là phiền não, khổ đau và sợ hãi cả. Mé yêu cũng vậy, mé ghét cũng vậy. Muốn giải thoát khỏi vòng trói buộc của yêu ghét, nghĩa là giải thoát khỏi phiền não, khổ đau cà sợ hãi thì đừng phân biệt. Khi đối pháp ta hãy nhìn vạn pháp như vạn pháp đang là. Với bản thân, ta hãy nhìn bản thân như bản thân đang là. Tuyệt đối không phân tách, phê bình, so sánh, đánh giá, kết luận để mống khởi ghét yêu. Vì phân tích, phê bình, so sánh, đánh giá để đi tới một kết luận nào đó chính là ngón nghề của tư tưởng. Chỉ có tư tưởng với kiến thức và kinh nghiệm tích lũy trong quá khứ mới có dữ kiện để thực hiện ngón nghề này. Nói khác đi, nếu ta còn mắc kẹt vào vòng lệ thuộc của không gian, thời gian thì còn có tư tưởng xuất hiện và xen vào bóp méo, cái thấy biết của ta làm cho ta không thấy biết được thực tướng của vạn pháp cũng như của chính ta. Phiền não, khổ đau và sợ hãi chính ở chỗ này mà ra. 

Tôi còn nhớ trước đây, vợ chồng tôi có dịp mới một ông bạn ngoại quốc đi ăn bánh cuốn tại một tiệm trong thành phố Sái Gòn. Tiệm bánh cuốn mà chúng tôi tìm đến bữa đó cũng là một tiệm nổi tiếng lúc bấy giờ. Thực khách ra vào nườm nượp, ai đến cũng phải chờ, phải đợi mới có bánh ăn. Ông bạn ngoại quốc của chúng tôi mới tới Việt Nam lần đầu tiên và ông ta chưa hề ăn bánh cuốn bao giờ. Tôi đặt ba phần ăn và sau khoảng nửa giờ chờ đợi, nhà hàng bưng ra cho chúng tôi ba dĩa bánh cuốn chả quế. Tôi mời khách, và chúng tôi bắt đầu ăn. Ông bạn ngoại quốc như bị cuốn hút bởi món ăn lạ. Ông nhìn ngắm những chiếc bánh cuốn trắng phau ánh lên màu đen lờ mờ của nhân bánh làn bằng thịt heo, nấm mèo và củ sắn nước. Ông hít hà mùi hành phi, mùi chả quế và mùi ngò hương rắc trên mặt bánh. Ông bạn ấy ăn trọn cả dĩa bánh cuốn lớn, nóng hổi chấm nước mắm ngọt cùng với chả quế và vừa ăn vừa khen ngon.

Còn vợ tôi thì trái lại chỉ ăn chiếc bánh cuốn đầu tiên là đã muốn bỏ đũa, bỏ chén, nhưng vì phép lịch sự đành tiếp tục nhăm nhi chút đỉnh cho qua bữa, để tiếp khách. Vợ tôi nói nào là bánh dở vì không làm bằng gạo thơm, lại tráng hơi dầy, thua xa bánh cuốn Thanh Trì bán ở đường Trần Khát Chân, Tân Định. Nhân bánh thì thịt ít, đồ độn nhiều. Chả quế thì bở, không ngon bằng chả quế của tiệm Ngọc Sơn đường Gia Long. Nước chấm thì dở vì pha bằng nước mắm loại tồi và dấm rẻ tiền, hơi nhiều mặn, ít ngọt và sau cùng còn một khuyết điểm quan trọng là không có dầu cà cuống. Cứ thế vợ tôi phân tích, phê bình, so sanh, đánh giá và sau cùng kết luận là bữa bánh cuốn hôm đó không đạt yêu cầu.Vợ tôi tỏ vẻ bực tức và trách tôi sao không quá bộ sang Tân Định (đường Trần Khát Chân) mà ăn. Cũng mức chi phí ấy mà bữa ăn ở đây chán ơi là chán! Thấy vợ buồn phiền tôi cũng mất vui.

Đấy thưa các bạn, ông bạn ngoại quốc nói trên ăn bánh cuốn mà không có tư tưởng xen vào. Bánh cuốn thế nào thì ông ta thấy rõ nó y như vậy. Còn vợ tôi vì có nhiều kiến thức và kinh nghiệm về bánh cuốn tích lũy trong ký ức, nên vừa thấy bánh cuốn là tư tưởng lập tức xề tới, thực hiện ngón nghề quen thuộc của nó, làm cho vợ tôi không thấy được bánh cuốn bữa đó y như nó đang là, và làm mống khởi ghét yêu đưa đến phiền não. Về phần ông bạn ngoại quốc kia, nếu bữa bánh cuốn hôm ấy làm ông thích thú thì chắc chắn hương vị bánh cuốn sẽ còn trụ nơi ông, và sau này, ông cũng sẽ bồn chồn đi tìm bánh cuốn ăn nữa và ăn nữa. Những loại bánh cuốn mà ông gặp sau này, ở các nơi khác cũng sẽ làm ông vui mừng hay bực dọc, vui mừng khi gặp bánh cuốn ngon, ngon hơn loại đã dùng trước; và bực dọc, như vợ tôi, khi gặp phải loại bánh cuốn kém chất nào đó, vì các bữa bánh cuốn về sau của ông đã có tư tưởng xen vào.

Rõ ràng là có kiến thức và kinh nghiệm tích chứa trong ký ức thì có tư tưởng. Và có tư tưởng là có phiền não, khổ đau và sợ hãi.

Đúng thế, con người ai cũng có một thói quen thâm căn cố đế, đó là thói quen tư duy. Thói quen ấy mạnh mẽ đến như khó bỏ. Thấy gì cũng tư duy, gặp gì cũng tư duy. Không những tư duy chuyện mình. Mà tư duy cả chuyện người. Hết tư duy chuyện nọ lại tư duy chuyện kia, chẳng ngưng nghỉ chút nào. Và đặc biệt là hễ đã tư duy thì thường tư duy theo chiều hướng phiền não, khổ đau và sợ hãi.

Muốn giải thoát khỏi phiền não, khổ đau và sợ hãi, chẳng có đường lối nào khác hơn là phi tư tưởng. Chẳng thế mà thiền tông Trung Hoa, phái Tào Động đã đưa ra khẩu hiểu hành thiền là: “Phi tư tưởng tức tọa thiền chi yếu dã”, tức là yếu chỉ hành thiền là phải ngưng dứt tư tưởng. Tọa thiền phải là phi tư tưởng. Còn tư tưởng chưa phải là tọa thiền. Tư tưởng đã “phi” rồi thì đi, đứng, nằm, ngồi cũng đều là tọa thiền cả. Tọa ở đây là tâm tọa, chứ không phải là thân tọa. Tọa có nghĩa là ngồi. Tâm tọa có nghĩa là tâm ở tại chỗ chứ không chạy nhảy lăng xăng nữa. Tâm ở tại chỗ là tâm hiện tiền, không quá khứ, không tương lai, là tâm nhất tướng, là phi tư tưởng vậy. 

Còn với thiền sư Bạch Ẩn thì chánh lệnh của ông ta là “Bát thức trung điền hạ nhất đao”, nghĩa là hãy cầm đao, xuống tay một nhát, băm nát thức thứ tám. Trong Phật học thì thức thứ tám còn gọi là tạng thức hay A Lại Da thức. A Lại Da là phiên âm từ chữ Phạn Alaya. Trong tiếng Phạn thì Alaya có nghĩa là tích chứa. Dãy núi cao nhất thế giới ở Ấn Độ có tên là dãy Himalaya. Him là tuyết, Alaya là tích chứa. Gọi thế vì dãy núi này cao nên lạnh lẽo, có tuyết phủ quanh năm. Nó giống như một kho tuyết vĩ đại vậy. Thức thứ tám được gọi là Alaya vì nó là nơi tích chứa tập khí, mà tập khí chính là kinh nghiệm và kiến thức tom góp, lưu giữ suốt trong quá khứ. Thức thứ tám là thùng chứa (le contenant hay the contaimer), còn tập khí là những gì chứa trong thùng (le contenu hay the contained). Nay băm nát thùng chứa, thì tập khí hết chỗ hội tụ, bám níu. Loại trừ được tập khí tức giải trừ được kinh nghiệm và kiến thức, cái cội gốc của tư tưởng, thì tư tưởng không còn, tiếng nói nội tâm cũng tắt lịm.

Nhưng có bạn lại nêu bài kệ sau đây của ngài Huệ Năng, vị Lục tổ của Trung Hoa:

Huệ Năng một kỹ lưỡng
Bất đoạn bách tư tưởng
Đối cảnh tâm sổ khởi
Bồ đề cánh ma trưởng(4).

Mà cho rằng đoạn tư tưởng là sai lầm. Đúng vậy, ngài Lục Tổ dạy chúng ta đừng tìm cách “đoạn” hay loại trừ tư tưởng vì đoạn hay trừ là có hàm ý xung đột, và khi đã có xung đột thì tâm hành giả làm sao có thể bình thường được, mà bình thường tâm chính là đạo. Mỗi khi đối cảnh, cứ để mặc tư tưởng “sổ khởi” tự nhiên. Nhưng với cái tâm hiện tiền, cái tâm tỉnh thức, hành giả sẽ thấy rõ từng tư tưởng mối khi nó mống khởi. Và do đó, tư tưởng tự động ngưng dứt, hồn nhiên ngưng dứt, chứ không cần phải có một cố gắng nào để “đoạn” hay loại trừ cả.

Cũng xin nhắc lại, là trong các bài viết của tập sách này, thì phi tư tưởng không có nghĩa là cố gắng dập tắt, dẹp bỏ hay loại trừ tư tưởng. Phi tư tưởng cũng không phải là một mục tiêu để hành giả theo đuổi, rượt bắt, cầu cạnh. Phi tư tưởng ở đây chí có nghĩa là tư tưởng tự động ngưng dứt một khi ta hiểu biết nó, nhận diện và theo dõi nó, hay nói một cách khác, thì phi tư tưởng là một tâm thái vô niệm tự động xuất hiện khi ta sống trọn vẹn với hiện tiền.

Chính ngài Lục Tổ chẳng đã có dạy: “Ngộ vô niệm pháp dã, kiến chư Phật cảnh giới”, và “Ngộ vô niệm pháp, chí Phật địa vị”.

Nghĩa là ai hành pháp vô niệm thì đi vào cảnh giới Phật, đạt được địa vị Phật. Rõ ràng, ngài Lục Tổ đã khẳng định vô niệm là giải thoát. Vô niệm chính là phi tư tưởng theo ngôn ngữ thời thượng.

Tóm lại, nói gì thì nói, nhưng rốt cùng thì cũng đi tới kết luận là chỉ có giải thoát khi vô niệm hay phi tư tưởng, hay trạng thái giải thoát là trạng thái phi tư tưởng thì cũng vậy.

Nhưng thông thường thì trước khi hành xử việc thế gian, con người phải có tư duy, nên e rằng với trạng thái vô niệm hay phi tư tưởng thì mọi hành xử trong cuộc sống có thể sa vào sai lầm, tội lỗi chăng?

– Cái tâm trĩu nặng tư tưởng là cái tâm động, tâm xáo trộn, tâm điên đảo. Chính cái tâm thái này mới dẫn ta đến sai lầm, tội lỗi. Còn khi vô niệm hay phi tư tưởng thì tâm ta thanh tịnh và sáng suốt vô cùng. Tự nó sáng soi và phân biệt thiện ác mà không vướng vào thiện ác. Tâm thanh tịnh thường được ví như mặt nước hồ phẳng lặng, có thể phản chiếu cảnh vật chung quanh một cách vô cùng rõ nét, vô cùng chính xác, nghĩa là cảnh vật thế nào, thì nó phản chiếu y như thế ấy, không sai sót, không bóp méo.

Còn cái tâm động hay vọng tâm thì lại được ví như mặt nước hồ nổi sóng chẳng thể phản chiếu cảnh vật xung quanh một cách trung thực. Chúng ta thử nghiệm coi. Mỗi khi ta khởi tham, sân, si và hành động sai trái một cách hăng say mù quáng. Đến lúc tâm bình trở lại, là lập tức ta ân hận, hối tiếc, không cần phải có người bình phẩm, phê phán ta mới nhận ra.

Chúng ta cũng thường thấy có những tổ chức tìm người rồi huấn luyện, trang bị cho cái gọi là lý tưởng hay một ý thức hệ nào đó để những người này dám làm những hành vi tàn bạo, dã man theo yêu cầu của tổ chức, mà những người không được trang bị không thể làm nổi. Lý tưởng và ý thức hệ lại chính là con đẻ của tư tưởng vậy.

GHI CHÚ:

(1) Sát na: Một giây lát, một thời gian thoáng qua mau lẹ vô cùng (Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn).

(2) Vô thượng diệu môn: Pháp môn vi diệu, cao cả nhất.

(3) Một niệm khởi lên tức có phân chia hai mặt đối đãi.

(4) Huệ Năng không có tài
Chẳng đoạn trăm tư tưởng
Đối cảnh tâm thường khởi
Bồ đề làm gì lớn.
(Lời dịch của Hòa thượng Thích Thanh Từ.

Nhưng con người trong cuộc sống có thể nào phi tư tưởng được không?

– Sống là phải tư tưởng. Sống mà không tư tưởng chỉ có loài súc sinh, cây cỏ. Tư tưởng là kiến thức và kinh nghiệm tích lũy trong ký ức. Ta không thể sống một cuộc đời bình thường hài hòa với xã hội, nếu không có kiến thức và kinh nghiệm. Không nói gì đến những chuyện to lớn như trị quốc, an dân hay thành đạt những tiến bộ vượt bực về văn hóa, khoa học, kỹ thuật, những chuyện mà chỉ những con người có vốn lớn kiến thức và kinh nghiệm mới có thể làm, và làm có hiệu quả được, mà ngay những sinh hoạt thường ngày trong cuộc sống của một con người cũng đòi hỏi một mức độ kiến thức và kinh nghiệm nào đó.

Không ai là không phải làm một công việc, bất kỳ là một công việc gì, để trước là kiếm sống, sau là đóng góp vào cho sự tiến bộ, sự phú cường, và sự an bình của xã hội. Nếu không có kiến thức và kinh nghiệm, bạn không thể làm được công việc của bạn dù chỉ là công việc đơn giản, khiêm nhường nhất. Đi ra đường nếu bạn không có kinh nghiệm và kiến thức thì không thể di chuyển an toàn được, không đi tới nơi, không về tới chốn được, ấy là chưa nói đến chuyện bạn bị cảnh sát giao thông chận lại, phạt tiền, giam xe.

Muốn chơi một trò thể thao như đấu quyền Anh, đánh bóng bàn, bóng rỗ v.v… hay chơi một trò chơi giải trí như đánh cờ, như thụt bi da v.v… bạn cũng phải có kiến thức và kinh nghiệm mới có thể nhập cuộc và chơi có hiệu quả tốt được.

Như vậy, rõ ràng phi tư tưởng thì không thể sống một cuộc sống xã hội bình thường, mà có tư tưởng thì lại có phiền não, khổ đau và sợ hãi, vậy phải làm sao đây?

  • Con người ta phần nào giống như một chiếc máy điện toán. Người ta đưa vào bộ nhớ của máy các dữ kiện đủ loại và khi cần tin tức nào, người ta bấm nút hỏi máy, máy sẽ trả lời. Dĩ nhiên máy chỉ trả lời được những câu hỏi mà máy đã có sẵn dữ kiện. Với những câu hỏi mà máy không có sẵn dữ kiện thì mày đành chào thua. Con người cũng vậy, chúng ta đưa vào ký ức rất nhiều dữ kiện, đó là những kiến thức và kinh nghiệm tom góp trong quá khứ, tích chứa trong tế bào óc não. Khi cần làm một công việc gì hay đáp ứng một đòi hỏi nào, một tình huống nào trong cuộc sống, ta phải moi óc huy động các dữ kiện ấy. Nếu óc não ta có sẵn các dữ kiện cần thiết thì ta mới làm được công việc muốn làm, hay đáp ứng được những đòi hỏi, những tình huống trong cuộc sống một cách thích đáng, còn không thì chúng ta cũng khoanh tay. Ta chưa học lái xe, nghĩa là ta chưa có kinh nghiệm và kiến thức về lái xe trong ký ức thì có cho ta lên một chiếc xe hơi và bảo ta lái đi, ta cũng đành chịu.

Ta muốn đi thăm một người quen hay một người bà con nào đó, ta cũng phải nương vào các dữ kiện có sẵn trong đầu về lộ trình tốt nhất, về khu phố, số nhà của người mà ta muốn đến thăm. Nhờ có kiến thức và kinh nghiệm tích lũy, ta mới đi tới đích một cách hiệu quả nhất, nghĩa là ta không phải mất thì giờ và tốn công sức dò hỏi đường đi, lối lại, tìm kiếm khu phố, số nhà.

Khi ta gặp một người mà ta sáp lại tay bắt, mặt mừng, chuyện trò niềm nở vì trong ký ức của ta đã có nhiều dữ kiện về người ấy như hình dáng, tên tuổi, hoàn cảnh gia đình, địa vị xã hội, tính nết, địa chỉ, cùng những kỷ niệm vui buồn khác khi cùng học, cùng làm, cùng ở tù v.v… Trái lại, ta lạnh lùng bước đi khi gặp một người lạ, vì trong ký ức của ta không có dữ kiện nào về người ấy cả.

Ta giống như máy điện toán là như thế, nhưng ta lại khác máy ở một điểm quan trọng là chỉ khi nào ta cần tin tức, ta bấm nút hỏi máy, máy mới lựa chọn các dữ kiện thích hợp tồn trữ trong bộ nhớ để trả lời. Còn không thì các dữ kiện đã đưa vào vẫn nằm yên, bất động trong bộ nhớ của máy. Về phần ta thì các dữ kiện tích chứa trong ký ức lại cứ tự động trồi lên, mỗi khi tâm ta rời bỏ hiện tiền để lôi ta vào hết suy nghĩ này đến suy nghĩ khác, và đặc biệt là khi một dữ kiện trồi lên thì nó thường lôi kéo các dữ kiện khác có liên hệ xa gần với nó cùng trồi lên, đây ta vào những suy nghĩ miên man, chuyện nọ xọ chuyện kia, vòng vo, rễ má, giây mơ, vô tận, vô cùng. Chẳng thế mà có những đêm ta trằn trọc thâu canh, hoặc sáng thức dậy thật sớm, nhâm nhi chén trà để suy nghĩ đăm chiêu những chuyện bâng quơ, chuyện quá khứ, chuyện tương lai, nào là hối tiếc, nào là mơ ước, cầu mong, nào là lo âu, sợ hãi, nào là oán trời, trách người, nào là tính toán xa gần, lập bày mưu chước để chiếm đoạt những điều ưa chuộng, say mê; hay tránh né, loại trừ những gì ta căm giận, thù ghét. Cái gốc phiền não, khổ đau và sợ hãi của ta là ở chỗ này.

Nếu ta hành xử được như máy điện toán, nghĩ là chỉ moi óc suy nghĩ khi cần thiết, khi có đòi hỏi cuộc sống, còn không thì thôi, ta cứ sống trọn vẹn với hiện tiền. Không nên rời bỏ hiện tiền để khi tư tưởng lại có cơ hội lôi kéo ta vào phiền não, khổ đau và sợ hãi không đâu. Nói khác đi là ta phải làm chủ tư tưởng của ta, chứ không để cho con ma tư tưởng tự do thao túng, đưa lối, dẫn đường như từ trước đến nay nữa. Gọi là ma, vì tư tưởng một khi ta chưa kiểm soát được nó, chưa làm chủ được nó, thì nó chẳng bao giờ đem lại cho ta an lạc, hạnh phúc mà trái lại hễ cứ có mặt nó, là chắc chắn có phiền não, khổ đau và sợ hãi bời bời. Thực ra làm chủ được tư tưởng thì ta vẫn có thể sống một cuộc sống bình thường, hài hòa trong xã hội mà vẫn giải thoát, vẫn tự tại.

Làm chủ tư tưởng cũng còn là khi đối diện với một tình huống, một đòi hỏi, một vấn đề trong cuộc sống cần phải tư suy để tìm ra một đáp ứng, một biện pháp giải quyết thì ta cứ tư duy, nhưng một khi xong việc rồi, dù kết quả có thế nào, thì ta cũng không trở lại để vui mừng, đắc ý hay hối hận, tiếc nuối về đáp ứng đã lựa chọn hay về biện pháp giải quyết đã thi hành, nếu không thật sự cần thiết.

Trong cuộc sống mỗi khi cần tư duy, nếu thật sự làm chủ tư tưởng thì ta sẽ chọn lựa được một lối tư duy hầu giải tỏa những chuyện sợ hãi, buồn đau, phiền não để chúng hết đường dính cứng, bám chặt vào ta mà day dứt, dằn vật ta về lâu, về dài.

Ví dụ: Một thằng nhỏ, con nhà hàng xóm hỗn láo với ta.

1. Ta có thể tư duy như sau: Thằng ranh con này, miệng còn hơi sữa, đáng cháu nội, cháu ngoại mình mà dám hỗn láo với một bậc trưởng thượng. Đúng là đồ mất dạy! Cha mẹ nó chẳng trông nom, dạy dỗ nó. Nhưng cha mẹ nó nào có tử tế gì đâu, cũng thô lỗ, cộc cằn, ngang ngược, cả xóm ai cũng biết. Đúng là có “gien” hỗn láo.

Nghĩ như vậy rồi thì ta căm ghét thằng nhỏ kia. Và từ đấy mối căm ghét cứ hiện diện hoài hoài trong tâm tư ta để hành hạ ta, nhất là những khi đi ra, đi vô, ta bắt gặp thằng nhỏ hàng xóm ấy, thì mối căm ghét kia như lại sôi sục, nấu nung, khiến ta muốn dạy hay mong có một người nào đó dạy cho thằng nhỏ một bài học xứng đáng.

2. Nhưng ta cũng có thể tư duy: Thằng nhỏ này hỗn láo thật, nhưng xét cho cùng thì cũng tội nghiệp nó. Cha mẹ nó vì cuộc sống khó khăn, suốt ngày phải bươn chải kiếm ăn, có thì giờ đâu mà trông nom, dạy dỗ con cái, và cũng chẳng đủ phương tiện tài chánh để gởi con đến trường, đến lớp. Cứ thả nó đi rông với bọn du thủ, du thực, cao bồi, du đãng, tập dữ tính thành, gần mực ắt phải đen thôi. Cũng như máy điện toán, ta đưa vào máy những dữ kiện nào thì khi hỏi, máy cũng chỉ lựa chọn những dữ kiện tồn trữ trong bộ nhớ để trả lời, chứ đâu lại có chuyện đưa ra những dữ kiện mà người ta chưa hề đưa vào máy bao giờ. Thằng bé này cũng vậy, nó có hỗn láo gì đâu. Hoàn cảnh cuộc sống của nó đã đưa vào ký ức nó những loại dữ kiện mà ta gọi là hỗn láo, và khi bị khích thích, nó cũng chỉ vận dụng và đưa ra được những loại dữ kiện như thế mà thôi. Ta đòi hỏi nó phải đưa ra những loại dữ kiện khác thì không thể có được.

Sau cùng, xã hội nói chung và cộng đồng địa phương nói riêng mà chính ta cũng là một thành viên, với lề lối tổ chức và điều hành còn nhiều khuyết điểm, cũngphải chịu trách nhiệm về sự vô giáo dục và thái độ hỗn láo của thằng nhỏ này.

3. Hoặc ta cũng có thể tư duy: Con người cũng như vạn pháp trên thế gian này chỉ là những hiện tượng tâm vật lý, chịu sự chi phối chặt chẽ của luật vô thường. Chúng thay đổi từng phút, từng giây. Không có người nào hay hiện tượng nào lại y hệt trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Một hiện tượng P ở thời điểm T hoàn toàn khác với hiện tương P’ ở thời điểm T’ kế đó. Vậy hôm nay ta có gặp lại thằng nhỏ kia, thì thằng nhỏ ấy không phải là thằng nhỏ đã hỗn láo với ta hôm qua, và cái ta bị thằng nhỏ xúc phạm hôm qua cũng không phải là cái ta hôm nay. Ta và nó hôm nay đã là hai người hoàn toàn khác biệt so với hôm qua rồi. Nay, mai cũng như những ngày tháng kế tiếp sau này, nếu có gặp nhau, thì cũng chỉ là cuộc gặp gỡ của hai hiện tượng hay hai người hoàn toàn xa lạ chưa từng quen biết và liên hệ với nhau bao giờ.

Ta bỏ lối tư duy thứ nhất và chọn lối tư duy thứ hai hoặc thứ ba thì cũng đã là tốt, vì như thế là ta đã làm chủ được tư tưởng. Ta chối bỏ được lối tư tưởng cột buộc, vướng mắc để chọn một lối tư tưởng giải thoát.

4. Nếu đã nắm được lý đạo thì chắc chắn ta sẽ chọn ngay lối tư duy rốt ráo sau đây: Thằng nhỏ ấy có buông lời hỗn láo với ta, nhưng những lời hỗn láo ấy vừa ra khỏi cửa miệng của nó thì xe bốn ngựa đã đuổi không kịp rồi(5). Chúng đã lập tức đi vào quá khứ và đi mất luôn. Chỉ tại ta lưu luyến, chấp trước(6), nên chúng mới ở lại cùng ta, hay năng lui tới với ta, làm ta bực tức, căm ghét dài dài. Sao ta không vượt thoát ra khỏi vòng lệ thuộc của thời gian, nghĩa là trả lại cho quá khứ những gì thuộc quá khứ đi, rồi quay lại sống trọn vẹn với hiện tiền thì nỗi bực tức kia, cái căm ghét kia sẽ lập tức tan biến và tâm ta tức thì trở lại an lạc.

Tư duy như thế là chánh tư duy và sống với hiện tiền là chánh niệm. Thực hành chánh tư duy và chánh niệm là hành đạo và đạt đạo vậy.

Tóm lại, hành đạo là nắm quyền làm chủ tư tưởng mình, nghĩa là khi có đòi hỏi của cuộc sống cần tư duy thì cứ tư duy, còn không thì hãy sống trọn vẹn với hiện tiền, đừng để sa vào vòng chi phối của thời gian, không gian, tức của tư tưởng mà chuốc lấy phiền não, khổ đau và sợ hãi khôn cùng. Được vậy thì hành giả vẫn sống cuộc sống bình thường như mọi người, một cuốc sống hài hòa với xã hội, thế gian mà vẫn giải thoát, vẫn tự tại.

GHI CHÚ:

(5) Phỏng theo câu: Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy.

(6) Chấp là nắm giữ, trước là dính gắn.

Bài năm:
NIẾT BÀN

Niết Bàn thường được nói tới như cái đích tối hậu của tất cả mọi người hành trì Phật pháp. Hầu hết Phật tử đều quan niệm rằng cứ gắng học, gắng tu sẽ có một ngày nào đó, ở vào một kiếp nào đó, được nhập Niết Bàn. Đức Phật có nói rằng ngài là Phật đã thành và chúng sinh là Phật sẽ thành. Hành đạo và đạt đạo cũng chẳng khác gì đi từ điểm A đến điểm B. Ai khởi hành trước và ra sức đi nhanh thì đến trước, ai khởi hành sau lại đi chậm thì đến sau. Ai không hởi hàn thì mãi mãi không bao giờ đến. Nghĩa là tất cả mọi người đều có khả năng đi từ A đến B. Nhưng đến trước, đến sau hay chẳng bao giờ đến thì cũng tùy mình. Nói khác di, ai cũng có khả năng thành Phật và được nhập Niết Bàn, lâu mau cũng tùy nhiệt tâm, nhiệt tình của mỗi người. Nhưng Niết Bàn là gì và ra sao?

Một số đông thường quan niệm rằng Niết Bàn là một cõi (cõi Niết Bàn). Cõi ấy ở đâu thì không biết, nhưng không ở trần gian này. Cõi ấy chỉ dành cho những gười thánh thiện, những vị tu hành đắc đạo. Còn những người đầy thói hư tật xấu, nặng óc tham, sân, si, thì chẳng bao giờ bén mảng được tới cõi ấy. Muốn lên được cõi Niết Bàn, phải tu luyện để trở thành thánh thiện, nghĩa là phải qua một quá trình dài lâu, có thể nhiều kiếp, nhiều đời, phải kiên trì, tinh tấn loại trừ dần thói hư taajt xấu, diệt dần tham, sân, si, mỗi ngày một chút, tích tiểu thành đại, rồi một ngày nào đó, đạo đủ, duyên đầy thì mới bước chân vào cõi ấy được. Con đường đi đến Niết Bàn dài xa khủng khiếp, hầu như vô tận, nhưng mỗi ngày ta nhích lại một chút, khoảng cách thu ngắn dần, lâu rồi cũng tới. Đi lên Niết Bàn cũng như một phi hành gia đổ bộ lên một thiên thể nào đó, phải có phương tiện và thời gian để vượt một khoảng không gian nào đó. Phương tiện của phi hành gia là các loại hỏa tiển, còn phương tiện của hành giả là công đức thâm hậu. Công đức thâm hậu kia ta phải tu dưỡng lâu ngày mới có. Góp gió thành bão. Chiếc bong bóng kia, nếu không bơm khinh khí vào, thì nó đâu có thể cất mình bay cao. Khinh khí trong quả bóng tượng trưng cho công đức do ta vun trồng.

Nếu Niết Bàn là một cõi, thì cõi ấy thế nào? – Chắc chắn ta chẳng thể biết được Niết Bàn ra sao, khi chúng ta chỉ mới “Văn kỳ thinh, bất kiến kỳ hình”, nghĩa là chỉ nghe nói chứ chưa thấy được hình tướng. Ta chỉ biết được Niết Bàn đã khi thực sự bước chân vào cảnh giới ấy. Kinh sách có thể mô tả Niết Bàn, nhưng hiểu biết Niết Bàn qua kinh sách thì cũng chẳng khác gì ta hiểu biết khung cảnh và cuộc sống sứ người qua thư từ của bạn bè, thân thuộc đi định cư ở nước ngoài gởi về. Đọc thư hoài, cả trăm, cả ngàn, mà ta thật sự có biết gì về xứ người đâu. Ngôn từ là vọng. Tin vào ngôn từ, hiểu biết qua ngôn từ tì chỉ là bám víu vào các ảo ảnh mà thôi. Nhưng hoàn toàn không tin vào ngôn từ cũng lại là sai.

Trong Phật học có chuyện ngụ ngôn rùa và cá. Rùa là loài lưỡng thê, vừa sống trên cạn, vừa sống dưới nước. Còn cá thì chỉ sống dưới nước thôi. Một hôm rùa gặp cá, có khoe với cá là rùa vừa đi dạo trên vùng đất khô về. Cá ngạc nhiên và tò mò muốn biết đất khô là gì, nên cá mới đưa ra mọt số câu hỏi để tùa giải đáp hầu giúp cá biết được thế nào là vùng đất khô. Cá hỏi:

– Đất khô có ẩm ướt không?

- Đất khô có mát mẻ, êm dịu không?

- Đất khô có trong suốt và ánh sáng xuyên qua được không?

- Đất khô có mềm mại, dễ bơi lội ở trong được không?

- Đất khô có di chuyển và chảy thành dòng không?

- Đất khô có nổi sóng và sủi bọt không?

Câu hỏi nào của cá, rùa cũng trả lời không. Vì thế, cá bèn kết luận chẳng làm gì có vùng đất khô như rùa nói và cho rằng rùa chỉ nói những điều đặt bày, dối trá mà thôi.

Cá chỉ biết có nước, nên rùa có nói gì đi nữa, có giải thích dài dòng đến mấy đi nữa, thì cá cũng chẳng thể biết được đất khổ là như thế nào. Đất khô là chân kiện, rùa đâu có thể dùng ngôn từ mà mô tả được chân kiện. Cá có đặt bao nhiêu câu hỏi nữa và được rùa trả lời tất cả những câu hỏi ấy, thì cá cũng chẳng thể có được cái biết về vùng đất khô như rùa. Cá nếu chỉ thấy biết vùng đất khô qua lời rùa là sai. Vì cái không ẩm ướt, không mát mẻ, không êm dịu, không trong suốt, và ánh sáng không xuyên qua được, không chảy thành dòng, không nổi sóng, không sủi bọt vẫn chẳng phải là đất khô. Còn nếu cá cho rằng rùa đặt bày dối trá thì cũng không đúng vì đất khô là thật có, nên mới nói chấp ngôn từ, văn tự là sai, mà lìa ngôn từ, văn tự cũng trật vậy.

Rùa từ vùng đất khô về nói về đất khô cho cá nghe. Đức Phật sau khi chứng đắc Niết bàn nói về Niết Bàn cho chúng sinh nghe. Niết Bàn đối với chúng sinh cũng như vùng đất khô đối với cá là những gì thật có. Nhưng cá chỉ thật sự biết đất khô là gì khi đã ra sức vươn mình nhảy lên bờ. Và chúng sinh muốn biết Niết Bàn là gì thì cũng phải nhập vào cảnh giới ấy mới có được cái thấy biết chân thật và đầy đủ về Niết Bàn.

Đúng vậy, chúng ta chẳng thể hiểu Niết Bàn qua ngôn từ, văn tự và chúng ta cũng chẳng thể hiểu Niết bàn qua qsuy nghĩ, tư duy. Mọi suy nghĩ của chúng ta về Niết Bàn chắc chắn không đúng. Ta suy nghĩ về Niết Bàn thì cũng giống như người mù suy nghĩ về ánh sáng. Dù suy nghĩ bao lâu đi nữa thì người mù cũng chẳng thể nào biết được ánh sáng như người sáng mắt. Như thói thường ta lại ưa suy nghĩ về những gì mà ta chưa biết và chấp nhận những điều mình suy tư là đúng. Rõ ràng lấy vọng làm chân! Ta đâu có biết rằng tư tưởng chỉ là những cái gì xưa cũ, còn cái ta chưa biết là những gì mới mẻ, nên ta chẳng thể lấy cái cũ mà hiểu biết cái mới được. Chẳng hạn như nayta không biết Niết Bàn là gì, ta liền tập trung suy nghĩ về Niết Bàn. Ta đang ở cõi Ta Bà(1) và chỉ có kiến thức về cõi Ta Bà mà thôi. Nếu suy tư về Niết Bàn thì ta cũng chẳng làm gì hơn là phóng ra một cảnh giới nghịch đảo với cõi Ta Bà và cho đó là Niết Bàn. Ta Bà dơ bẩn, thì Niết Bàn thanh tịnh. Ta Bà khổ đau thì Niết Bàn hạnh phúc; Ta Bà vô thường thì Niết Bàn hữu thường v.v… Ta Bà và Niết Bàn như vậy có một tương quan nhân quả. Vì có Ta bà dơ bẩn, khổ đau, vô thường nọ, nên mới só Niết Bàn thanh tịnh, hạnh phúc và hữu thường kia.

Nếu Niết Bàn còn được quan niệm là một cõi nào đó và con người phải càn có thời gian tu luyện mới lên cõi đó và cõi đó với thế gian này lại có tương quan nhân quả, thì ta còn bị thời gian, không gian và nhân quả trói buộc, và do đó phiền não, khổ đau và sợ hãi còn nhiều và chẳng bao giờ ta tới Niết Bàn được. Một tác giả Tây phương đã minh họa Niết Bàn như sau:

Ông ta vẽ một tam giác ba cạnh đều, một cạnh là cạnh thời gian, một cạnh là cạnh không gian và một cạnh là cạnh nhân quả. Vùng tam giác giới hạn bởi ba cạnh tượng trưng cho cõi Ta Bà, còn vùng ngoài tam giác tượng trưng cho Niết Bàn, vì ở vùng này con người đã thoát khỏi sự ràng buộc của không gian, thời gian và nhân quả, nghĩa là con người không còn bị chi phối bởi tư tưởng, mẹ đẻ của phiền não, khổ đau và sợ hãi nữa.

 

Ta vẽ hai góc nhọn: góc nhọn ANB tượng trưng cho quá khứ, góc nhọn CND tượng trưng cho tương lai. Vẽ như thế vì tương lai do tư tưởng phóng chiếu ra thường nghịch đảo với quá khứ như đã trình bày ở bài I. Dấu  là dấu vô cực.

Điểm N là điểm phi thời gian vì ở đó không có quá khứ, không có tương lai. Tại điểm N này tâm của hành giả là tâm vô trụ, tâm vô nhiễm, tâm nhất tướng, tâm thanh tịnh, chân tâm v.v… Ta muốn gọi gì cũng được, nhưng tại đó hành giả có một tâm thái an nghỉ, tĩnh lặng, sáng suốt. Tâm thái ấy chính là Niết Bàn.

Nói như thế và minh họa như thế để thấy rằng Niết Bàn chẳng phải là một cõi cách biệt mà Niết Bàn ở ngay trước mặt. Khi ta thoát khỏi vòng trói buộc của không gian, thời gian và nhân quả, nghĩa là khi ta sống trọn vẹn với hiện tiền tức đã phi tư tưởng thì ta thật sự nhập Niết Bàn, nhập tức thì, nhập ngay cõi đời này, với xác thân này. Và một khi đã nhập rồi thì ta mới biết được Niết Bàn là gì và như thế nào.

Thiền tông Trung Hoa có câu chuyện này: một thiền sinh bữa nọ hỏi một thiền sư rằng, trong kinh Lăng Nghiêm có câu: “Thập phương Bạc Già Phạm nhất lộ Niết Bàn môn”. Nghĩa là chư Phật ở khắp mười phương đã theo con đường duy nhất này (con đường do kinh chỉ dạy) mà tới Niết Bàn. Đã nói là con đường tất có đầu đường và cuối đường. Niết Bàn là cuối đường, là cái đích mà những người hành trì Phật pháp theo chân chư Phật mười phương nhắm tới. Nhưng để đi tới cái đích ấy, phải khởi từ chỗ nào?

Thiền sư lấy cây trụ trượng đang cầm trong tay vạch lên hư không một đường ngang và nói: “Ở chỗ này”.

Thiền tông chủ trương bất lập văn tự và cũng ít dung ngôn từ. Sự trao đổi giữa thầy trò đôi khi chỉ là một cử chỉ, một thái độ, chưa kể đến la hét, đánh đập, coi như một hình thức “dĩ tâm truyền tâm”. Rồi thiền sinh kia cũng sẽ hiểu được rằng chẳng làm gì có có đường dẫn đến Niết Bàn. Danh từ “con đường” chẳng qua chỉ là một lối nói. Con đường đi tới Niết Bàn là con đường không đường, con đường hư không. Niết Bàn chẳng ở đâu xa. Niết Bàn ở ngay trước mặt. Niết Bàn là cuộc sống. Cứ sống trọn vẹn với cuộc sống nghĩa là sống trọn vẹn với hiện tiền, thì hành giả lập tức bước vào một thế giới trong đó tuyệt đối không có bóng dáng phiền não, khổ đau và sợ hãi. Thế giới ấy chính là Niết Bàn tại thế, một thế giới tràn ngập hạnh phúc vĩnh cửu. Nói hạnh phúc vỉnh cửu là cốt để phân biệt với hạnh phúc phù du, chốc lát của thế gian.

Đúng vậy, hạnh phúc Niết bàn khác xa với hạnh phúc thế gian. Vì hạnh phúc thế gian là sự thỏa mãn một điều tham dục nào đó. Nhưng một điều tham dục này vừa thỏa mãn, thì lập tức một điều tham dục khác lại nẩy sinh, đẩy ta trở lại phiền não, khổ đau và sợ hãi. Như vậy hạnh phúc tràn gian chỉ vừa chợt nháng lên đã vội tắt lịm. Khác với loại hạnh phúc tạm bợ, chốc lát của thế gian, hạnh phúc Niết Bàn có tính vĩnh cửu vì do sự chấm dứt mọi tham dục mà có. Tham dục là tư tưởng. Tư tưởng đã “phi” rồi thì mọi tham dục cũng ngưng dứt và hành giả đạt đến một loại hạnh phúc mãi mãi không phai lạt, mãi mãi không lụi tàn, hạnh phúc Niết Bàn. Chừng nào mà tư tưởng còn có mặt, thì Niết Bàn vẫn còn là gì xa lạ đối với ta, chẳng khác gì vùng đất khô đối với cá trong chuyện ngụ ngôn trên.

Đúng thế, Niết Bàn là một từ phiên âm của Nam Phạn “Nibbàna” hay của từ Bắc Phạn “Nirvana” gồm hai phần “Ni” và “Vàna”. “Ni” có nghĩa là không, là phủ định, là phi. Còn “Vàna” có nghĩa là tham dục. Niết Bàn chẳng phải một cõi nào, mà chỉ là một tâm thái an định, giải thoát, do sự chấm dứt tham dục mà có. Một khi tư tưởng ngưng dứt thì tham dục tan biến, và lập tức có Niết Bàn ngay. Còn nếu quan niệm Niết bàn là một cõi nào đó cách biệt với thế gian này thì còn lệ thuộc vào không gian, thời gian, tức là còn bị chi phối bởi tư tưởng thì chẳng bao giờ nhập Niết Bàn được.

Chúng ta hầu hết bị cuộc sống lôi kéo, cuốn hút, chạy theo mục tiêu này, rượt bắt ước muốn kia, nên luôn luôn chìm đắm trong phiền não, khổ đau và sợ hãi. Nhưng có một lúc nào đó, chúng ta thử tách khỏi cuộc sống lo âu, bận rộn hàng ngày để sống một lối sống khác, dù chỉ trong chốc lát, một lối sống vô sở cầu, không so chiếu, chuyện ai mặc nấy, chẳng vơ vào, chẳng chấp trước, không nuối tiếc quá khứ, không ngóng vọng tương lai. Không hận thù, không ghen ghét, đố kỵ, không si mê, không nghĩ thiện, nghĩ ác, không nghĩ rủi may, thành bại, để tâm tư không một chút ràng buộc, vướng mắc. Nói ngắn lại, ta hãy thử sống hoàn toàn tự do, không để cho kiến thức và kinh nghiệm tích chứa trong ký ức khống chế, ảnh hưởng. Sống như thế chắc chắn chúng ta sẽ bắt gặp một cảnh giới không bút nào mô tả được, mà ngôn ngữ gọi là Niết Bàn. Vâng, Niết Bàn là vậy, nó ở ngay trước mặt chúng ta. Chúng ta muốn vào lúc nào thì vào, muốn ra lúc nào thì ra, tùy ta. Chúng ta muốn ở bao lâu cũng được, cũng chẳng cần phải lễ lạy ai, chẳng cần cầu cạnh người nào, chẳng cần sự giúp đỡ của bất cứ tổ chức lớn nhỏ nào, cũng chẳng cần một hình thức bề ngoài nào. Đi thẳng vào tâm! Trực chỉ Niết Bàn! Thật là đơn giản! Thật là dễ dàng!

Tóm lại, nếu có ai hỏi Niết Bàn là gì và làm thế nào nhập được Niết Bàn thì ta có thể trả lời ngắn gọn mà không sợ sai thiếu rằng khi tư tưởng ngưng dứt thì tham, sân, si vắng bóng, và hành giả lập tức nhập Niết Bàn, nhâp rồi tất biết.

Trong Phật học gọi loại Niết Bàn tại thế này là Hữu Dư Niết Bàn. Hành giả có thể thân chứng loại Hữu Dư Niết Bàn này ngay tại cuộc sống này, với thân xác này. Đây cũng là một điểm khác biệt giữa Phật giáo và các tôn giáo khác. Theo các tôn giáo khác thì chỉ sau khi lâm chung, người có thiện tâm, có đức tin mới được đấng Tối cao đón về cảnh trời huy hoàng,vĩnh cửu và hạnh phúc tuyệt đối. Cảnh trời huy hoàng, vĩnh cứu và hạnh phúc tuyệt đối này tương tự như một loại Niết Bàn thứ hai mà Phật học gọi là Vô Dư Niết Bàn, một loại Niết Bàn chỉ chứng nghiệm được sau khi chết.

Vô Dư Niết Bàn hay cảnh trời huy hoàng, vĩnh cửu và hạnh phúc tuyết đối thì ta không thể nghĩ bàn. Đức Phật cũng như các vị giáo chủ khác có nói với chúng ta về Vô Dư Niết Bàn hay cảnh trời huy hoàng, vĩnh cửu và hạnh phúc tuyệt đối thì cũng chẳng khác gì rùa nói với cá về vùng đất khô mà thôi.

Niết Bàn, dù Hữu Dư hay Vô Dư, nếu còn là cái đích để nhắm tới, còn là niềm mơ ước để ôm ấp, thì chẳng còn là Niết Bàn nữa mà chỉ là một loại dây oan cột buộc ta vào phiền não, khổ đau và sợ hãi mà thôi.

GHI CHÚ:

(1) Ta Bà (hay Sa Bà) là một cõi uế trược đầy dẫy khổ huống, tai ương, trong đó chúng sinh sống hỗn tạp. Người tu hành chân chính và người ngay lành thì ít mà kẻ ngụy trá, độc ác thì nhiều. Thế gian này, theo Phật học, là một cõi Ta Bà.

Bài sáu:
SO CHIẾU

Tôi và anh A là đôi bạn thân từ thuở thiếu thời. Chúng tôi sinh cùng một năm, học cùng một trường ở bậc Tiểu học và Trung học. Đến khi ra đời, thời cuộc đẩy đưa, chúng tôi lại cùng đi học khóa Sĩ quan tại một quân trường nọ. Mãn khóa, chúng tôi cùng phục vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cho đến tận ngày mất nước. Sau đó, cũng vì cấp bậc chúng tôi lại đi cải tạo chung một trại, chịu chung một chế độ đối xử. Đến lúc được tha về cùng một đợt, chúng tôi lại dắt nhau làm cùng một nghề, nghề đến các tư gia dạy ngoại ngữ để kiếm sống. Những ngày rảnh rỗi, chúng tôi thường cưỡi mỗi người một chiếc xe đạp cà rịch, càng tàng đi chơi đây đó với nhau.

Chẳng biết duyên nghiệp từ đời kiếp nào đã xui khiến chúng tôi có một hoàn cảnh tương đồng và một quan hệ mật thiết lâu dài, cùng nhau chia sẻ ngọt bùi cũng lắm, mà đắng cay cũng nhiều. Quá trình thâm giao ấy làm cho chúng tôi thân thiết như ruột thịt. Và vì chúng tôi thân nhau, nên vợ tôi cùng chị A cũng trở nên thân nhau. Ấy thế mà tình bằng hữu keo sơn của chúng tôi bỗng dưng tan biến, chẳng phải vì sự sai sót, khiếm khuyết của bên nào. Tôi tránh gặp anh A, vợ tôi tránh gặp chị A, tìm mọi cách tránh, dần dần đi tới chỗ tuyệt giao. Đã lâu rồi, kể có vài năm, chúng tôi không gặp nhau nữa. Sở dĩ có hiện tượng này chính là ở chỗ vợ chồng chúng tôi,cũng như nhiều người khác, ưa so chiếu và vướng mắc vào sự so chiếu ấy.

Số là gia đình anh A cho các con vượt biên tìm tự do, trốn lánh chế độ hà khắc của cộng sản, đứa nào cũng đi trót lọt, tới bến tới bờ an toàn, tốt đẹp. Nay các con anh, đứa thì định cư ở Mỹ, đứa thì ở Canada, đứa thì ở Úc. Tháng nào anh chị ấy cũng nhận được hàng hóa hay ngoại tệ do các cháu từ nước ngoài gởi về. Thế là anh chị ấy đã có một cuộc sống tiện nghi, thoải mái. Quần áo, giày dép và các loại tư trang đều là đồ ngoại. Máy giặt, tủ lạnh, ti vi, cát xét đều là thứ tốt. Chiếc xe đạp cà rịch, cà tang trước kia nay đã được thay thế bằng một chiếc xe gắn máy hiệu Honda đời mới.

Còn gia đình tôi thì chẳng một cháu nào vượt biên thoát, ấy là chưa nói đến chuyện bị bắt bớ, tù đày. Nay chúng làm ăn vất vả, đầu tắt, mặt tối mà chẳng đủ nuôi thân. Cuộc sống gia đình thiếu trước hụt sau.

Mỗi lần đến thăm anh chị A, hay tình cờ gặp anh chị ấy ngoài phố, ngoài đường, là tôi và vợ tôi lại trông người mà nghĩ đến ta. So chiếu với anh A, sao chúng tôi thấy mình kém may mắn quá. Ấy thế mặc cảm thua kém và niềm đố kỵ đã đẩy chúng tôi xa nhau, hay đúng hơn đã khiến chúng tôi tự tay cắt đứt mối tình bằng hữu thâm viễn và khắng khít kia. Chúng tôi cho rằng, chẳng nên thăm viếng hay gặp gỡ nhau làm gì, vì có thấy nhau thì vui vẻ ít, và gần như không có, còn khổ đau thì lại quá nhiều. Cái sung túc, thoái mái của anh chị A là cái phiền não, bứt rứt của vợ chồng tôi. Từ quần áo anh chị A mặc, giày dép anh chị A đi, đến xe cộ anh chị ấy xài, máy móc anh chị ấy dùng, cái gì cũng làm cho chúng tôi buồn chán về số phậm hẩm hiu của mình. Trước kia, cuộc sống của hai gia đình chúng tôi sàn sàn như nhau, nay thì kẻ một trời, người một vực. Vì vậy tôi không đếm thăm anh A nữa. Vợ tôi không đến thăm chị A nữa. Có tình cờ gặp nhau ngoài đường, ngoài chợ, chúng tôi cũng quay lưng đi. Anh chị ấy có trông thấy và lên tiếng gọi, chúng tôi cũng lờ đi, làm như không nghe thấy. Anh chị ấy có đến nhà thăm, vợ chông tôi cũng lánh mặt, cho con ra nói là chúng tôi vắng nhà. Chúng tôi thật sự sợ hãi mọi cuộc gặp gỡ, tiếp xúc với anh chị A. Vì mỗi lần gần gũi, anh chị ấy chỉ nói lên những điều trung thực về sinh hoạt của gia đình anh chị ấy là chúng tôi nghe đã thấy nhức nhối lắm rồi. Với chúng tôi thì lời lẽ dù trung thực ấy cũng mang tính khoe khoang, và khoe khoang nơi anh chị ấy là miệt thị nơi chúng tôi.

Những tưởng không thấy mặt nhau, không nghe nhau nói là mọi chuyện êm xuôi. Nhưng không, mặc cảm hẩm hiu, thua kém vẫn bám chặt lấy chúng tôi và day dứt không nguôi. Nguyên nhân nào đã khiến chúng tôi đang tâm đoạn tuyệt với những người bạn thâm giao và nguyên nhân nào đã làm cho chúng tôi phiền não? – Chính là so chiếu và chấp trước so chiếu(1). Nay quán chiếu(2) tâm tư, hành động, tôi đã phát hiện ra bốn khuyết điểm to lớn sau đây:

1. Thấy anh chị A bề ngoài có thăng tiến kinh tế, chúng tôi cứ nhất định cho rằng anh chị A là những người sung sướng. Và thấy anh chị ấy sung sướng thì lập tức thấy mình đau khổ. Cái sung sướng của anh chị A là nhân, Cái đau khổ của chúng tôi là quả. Nhân quả tức thì. Sự thật thì cái sướng, cái khổ của người khác, ta không tài nào biết được. Ta thường căn cứ vào sinh hoạt hay ngoại hình để suy đoán cái sướng, cái khổ của tha nhân. Nhưng, những sự suy đoán này thường sai lầm. Ta cho một người là sung sướng, thì có thể người ấy thật sự lại khổ đau và ngược lại.

Trước đây, bản thân tôi có quen biết một doanh gia cỡ lớn. Ông ta ở biệt thự, đi xe đời mới, ăn bận lúc nào cũng thừa sang trọng, làm ăn thì ông thường tìm ký những hợp đồng lớn. Tôi cứ nghĩ ông ta là người sung sướng tuyệt đỉnh. Ấy thế mà một hôm xem báo tôi đã thấy ông nhảy sông tự trầm.

Lại mới đây thôi, tôi, một lần nữa, phạm vào một sai lầm tương tự. Số là xóm tôi có một ông vốn là viên chức của chế độ cũ, một loại viên chức hết sức khiêm nhường. Gia đình xưa nay vốn nghèo. Nhà cửa lụp xụp, tối tăm. Nhưng, ông có người con trai đi theo cộng sản nay có chức, có quyền trong chế độ mới, và do đó có tiền, có bạc. Ông xây một ngôi nhà đầy đủ tiện nghi to đẹp nhất khu phố. Tôi cũng như mọi người quen biết đều cho ông là người sung sướng tuyệt vời, vì gia đình ông nay phú cũng có, mà quý cũng có. Nhưng, chẳng bao lâu, sau khi ăn tân gia linh đình, một sáng vừa thức dậy tôi đã nghe tin ông tự ải trong nhà tắm đêm qua.

Không phải chỉ riêng tôi mới phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác, mà tôi đã đích thân chứng kiến những sai lầm giống hệt nơi những người khác.

Một hôm tôi xách giỏ đi chợ. Hàng ngày tôi vẫn làm việc này. Từ ngày đi cải tạo về, tôi chẳng có việc làm. Các con tôi thì mỗi đứa một việc, bươn chải kiếm sống. Vợ tôi thì sức khỏe kém, mắt kém. Tôi phải trám vào chỗ trống để sinh hoạt gia đình được bình thường. Tôi đang hành đạo giải thoát ngay giữa chợ, nghĩa là tôi đang chú tâm vào hiện tiền; đang an nhiên, tự tại; đang vui hưởng hạnh phúc Niết Bàn ngay trong cảnh ồn ào, náo nhiệt của chợ phiên buổi sớm. Bỗng nhiên, có một bà đến trước mặt tôi, cúi đầu chào tôi và cho biết trước đây bà là nữ thư ký quốc phòng phục vụ trong một đơn vị do tôi chỉ huy. Qua vài lời thăm hỏi thông thường, bà ghé sát miệng vào tai tôi nói nhỏ: “Hôm nọ nghe đài Hoa Kỳ (VOA), em thấy loan tin chánh phủ Mỹ và chánh phủ Việt Nam đã thỏa thuận về một chương trình tái định cư tại Mỹ cho những người sĩ quan cải tạo như bác. Em mong phía Mỹ sớm đón bác đi, chứ ở đây, em thấy bác khổ quá. Cứ gặp bác là em lại động lòng thương bác”. Thì ra bà này cũng như tôi, cũng như mọi người khác, cũn gphạm sai lầm giống nhau. Tôi thật sự có khổ gì đâu, ngay lúc gặp bà và thường ngày tôi cũng chẳng khổ. Chắc hẳn bà cho rằng tôi trước kia có chức, có quyền, nay sống cuộc đời dân giả, nên phải khổ thôi. Nhờ ánh sáng của đạo, tôi đã dứt khoát, không nuối tiếc quá khứ, không chạy theo ảo ảnh của tương lai, tùy duyên mà sống. Vì vậy tâm tư vẫn bình ổn ngay cả trong cảnh bể dâu này.

Trường hợp anh chị A cũng vậy, tôi cứ nhất mực cho rằng anh chị ấy sung sướng. Sau có dịp gặp gỡ, truyện trò với người ảanh ruột của anh A, tôi mới được biết rằng từ ngày anh chị A có được một nền kinh tế khởi sắc, thì cũng từ ngày đó tai họa dồn dập xô vào nhà anh, làm cho cuộc sống anh chị ấy chồng chất khổ đau. Số là sau khi đã cho bốn đứa con đầu vượt biên trót lọt, an toàn, anh chị ấy trong tay sẵn tiền do các cháu từ nước ngoài hửi về, bèn thừa thắng xông lên, ép đứa con trai còn lại vượt biên tiếp, mặc dù thằng nhỏ này rất sợ sóng nước, biển khơi. Nó đã nhiều lần tỏ ý thoái thác nhưng vì áp lực từ phía cha mẹ, nó đành nhắm mắt ra đi, để rồi mất tích luôn. Anh chị A dấu nhẹm chuyện này không cho ai hay, trừ người anh ruột của anh A. Thế là từ đó mặc cảm giết con cứ âm thầm cắn xé anh chị. Đêm nào cũng vậy, trướ ckhi đi ngủ, thắp nhang bàn thờ thằng nhỏ thì hai anh chị lại giọt ngắn, giọt dài. Anh A thì hang ngày lai cứ mượn chén giải sầu. Anh vốn đã bị đau bao tử nặng ngay từ lúc còn trong trại cải tạo, nay uống rượu liên miên, bệnh trở nêm trầm trọng, ói ra máu phải đi giải phẩu. Chưa hết, đứa con gái út là đứa con duy nhất còn ở lại Việt Nam với anh chị ấy, thì cũng vì gia đình có tiền, có bạc dồi dào, nên đâm ra ăn diện, nay mốt này, nay mốt khác. Tuổi còn nhỏ mà đã cặp bồ, cặp bịch lung tung. Mới đây, nó bỏ nhà theo trai, anh chị ấy lại thêm một nỗi rầu thúi ruột.

Đấy, trong lúc tôi thật sự không biết anh chị A sướng, khổ thế nào, nhưng tôi lại cứ khăng khăng lấy vọng làm chân! Trừ những bậc đạt “tha tâm thông”(3) thì không biết thế nào, chứ như chúng ta thì không thể nào suy đoán được chính xác cái sướng, cái khổ của người khác. Ngay cả trường hợp sự suy đoán có tương đối chính xác đi nữa, nghĩa là ta cho rằng người nào đó là sướng hay khổ thì người đó quả có sướng, có khổ thật, hoặc ta lại được chính người đó nói lên nỗi khổ, cái sướng của họ cho ta nghe, thì ta cũng chẳng có thể biết được nỗi khổ, cái sướng của người đó ra sao và thế nào, bất quá ta cũng chỉ lấy kinh nghiệm, sướng, khổ của bản thân ta để hiểu biếtcái sướng, khổ của người đó mà thôi. Nhưng trên thực tế làm gì có cái sướng, cái khổ của người này giống cái sướng, cái khổ của người kia như một. Sướng hay khổ là chân kiện, nên sướng, khổ của người nào thì chỉ người ấy mới cảm nhận được chính xác mà thôi.

2. Cuộc sống của mỗi người chỉ là nghiệp báo. Tất cả những hành động, nói năng, những suy nghĩ của ta trong quá khứ có thể là hiện kiếp hay ở các kiếp trước, mà có tác ý (có tư tưởng xen vào) đều tạo nghiệp. Nghiệp thì có ác nghiệp, có thiện nghiệp. Nghiệp ta đã thế, thì duyên ta phải vậy, và cuộc sống ta phải thế này, chứ không thể khác được. Ta bị sống, chứ không thể sống theo ý ta mong muốn. Trong quá khứ có bao giờ lại có hai người có nghiệp nhân giống hệt như nhau, để đến nay có nghiệp quả giống hệt như nhau, và do đó cuộc sống của hai người in tuồng như một. Không bao giờ lại có chuyện ấy. Đòi một chuyện như thế xảy ra thật là điều không tưởng. Thế mà tôi cứ đòi chuyện gì xảy ra cho anh A, cũng phải xảy ra cho tôi. Nếu không được thế thì sinh đố kỵ, hờn ghen.

Trong cuộc sống của hai chúng tôi trước đây tưởng như có nhiều điểm tương đồng, nhưng thật ra nó chẳng giống nhau một chút nào. Cuộc sống của anh là của anh. Cuộc sống của tôi là của tôi. Hai cuộc sống hoàn toàn khác biệt nhau. Đem hai cái hoàn toàn khác biệt mà so chiếu với nhau thì còn gì phi lý cho bằng. Vả lại tôi chỉ đòi hỏi những gì mà tôi cho là tốt đẹp đến với anh A cũng phải đến với tôi, chứ tôi chẳng bao giờ đòi những gì mà tôi cho là xấu xa, bất hạnh đến với anh A phải đến với tôi đâu.

Hơn thế, con người ta thường bất công khi so chiếu. Cuộc sống con người có nhiều mặt. Theo khoa Tử vi của Đông phương thì có mười hai cung(4) trong mỗi lá số, tượng trưng cho mười hai mặt của cuộc sống. Ta có thể kém một người mặt này, nhưng lại có thể hơn họ mặt khác. Vậy mà khi so chiếu ta chỉ nhắm vàomột mặt nổi cộm nào đó mà thôi, và chỉ thua kém riêng về mặt ấy cũng đã đố kỵ, hờn ghen ngập tràn rồi. Lại nữa, ta nhất mực cho rằng cái hơn kia là phước, cái kém này là họa. Nhưng phước họa nào có mãi mãi phân minh. Phước nay mà họa mai và họa nay mà phước mai. Trong phước đã có mầm họa và trong họa đã có nhân phước. Vả lại phước họa, may rủi, cái trò nhị nguyên dối đãi này, chỉ là chuyện bày đặt của tư tưởng mà thôi. Nhân đã vậy thì quả phải thế, chứ nào có phước họa, may rủi gì đâu.

3. Phàm đã so chiếu thì thế nào cũng đưa đến hơn thua. Hơn thì sinh khinh thị. Thua thì sinh đố kỵ. Khinh thị thì tổn đức, là gieo một nhân xấu. Chẳng thế mà có những vị tu hành chỉ giữ có một pháp là pháp bất khinh mà đắc quả Bồ tát (Thường Bất Khinh Bồ tát).

Đố kỵ thì còn nguy hiểm hơn thế nhiều, vì đố kỵ thường đưa tới những suy nghĩ xấu, những nói năng xấu, những hành động xấu nhằm làm giảm thiểu, triệt tiêu cái ưu thắng của đối tượng. Như vậy nghiệp nhân xấu gieo trồng không biết bao nhiêu mà kể và cái quả trực tiếp, nhãn tiền là cái dằn vật, cái day dứt mà ta phải thọ lãnh tức thì khi có đố kỵ. Nếu người ta có hơn mình thì cũng là chuyện của người ta. Phước ai nấy hưởng. Nếu ta muốn bằng người hay hơn người thì chẳng có cách nào khác là ta hãy làm tốt, nói tốt, nghĩ tốt, phóng sinh, bố thí, trì giới, niệm Phật, ăn chay v.v… rồi phước báo sẽ đến với ta. Ta đố kỵ một, chứ đố kỵ mười thì cũng chẳng ảnh hưởng gì đến phước báo của kẻ khác, mà chắc chắn chỉ ảnh hưởng xấu đến phước báo của chính ta thôi.

Phật tại tâm hay đúng hơn tâm chính là Phật, một quyền năng siêu tuyệt và công bình tuyệt đối. Không cứ gì những hành động to lớn nổi bật thiện hay ác mà ngay từ một cái ngoéo tay, một cái liếc mắt, một ý nghĩ thầm kín tốt hay xấu nhen nhúm trong ta đều được tâm ta ghi chép đầy đủ, không thiếu, không sót. Thế rồi một hệ thống cân, đong, đo, đếm, bù qua, sớt lại được thực hiện mà phàm trí của chúng ta không thể nghĩ bàn, để định nên cuộc sống của ta ở hiện kiếp và các kiếp sau. Thế nghĩa là chính ta tạo nên số phần của ta, và dĩ nhiên ta có toàn quyền, cũng như có khả năng sửa đổi số phần ấy. Ngoài ta ra không có một thế lực nào định đặt nên cuộc sống của ta hiện tại hay tương lai. Vui vẻ, sung sướng thì chẳng nói làm gì, nhưng có gặp cảnh éo le, cùng khốn thì ta chẳng nên oán trời, trách người, mà chỉ nên ý thức rằng vạn sự do ta. Ta làm ta hưởng. Làm lành, hưởng lành, làm ác, hưởng ác, một quy luật công bình tuyệt đối mà không một ai, không một tổ chức nào lại có thể can thiệp vào được, ngoài ta ra.

4. Đức Phật dạy Tứ vô lượng tâm tức Từ, Bi, Hỷ, Xả. Ở đây chỉ nói đến tâm Hỷ. Hỷ là lòng vui mừng trước cái vui mừng, cái hạnh phúc, cái may mắn, cái thành công của người khác. Ba tâm kia (Từ, Bi, Xả) không nói làm gì trong bài viết này, nhưng tâm thứ tư còn lại là tâm Hỷ thì hoàn toàn không có nơi tôi. Nếu như tôi có tâm Hỷ thì lòng đố kỵ, ghen tỵ làm gì còn có cơ nhen nhúm và phát triển để đẩy tôi vào phiền não và khổ đau để tôi tự nhiên vô cớ đang tâm cắt đứt tình bằng hữu thâm viễn, mặn nồng.

So chiếu kích thích tham dục, và tham dục lúc nào cũng là cội gốc của phiền não, khổ đau và sợ hãi. Vì vậy có người chủ trương hãy dứt đi mọi so sánh, hãy tuyệt đi mọi đối chiếu. Chuyện người thì mặc người. Ta ôm chuyện người làm chi cho khổ tâm, cực thân.

Người khác lại chủ trương rằng hãy trông xuống, chứ đừng trông lên, nghĩa là nếu không dứt tuyệt được mọi so chiếu, thì ta chỉ nên so chiếu với những ai, về một mặt nào đó, mà ta biếtchắc là họ thua kém. Nhưng tư tưởng của ta vốn vô cùng bén nhạy, chỉ trong chớp mắt là việc so chiếu đã hoàn tất. Ta không thể nào giới hạn mọi so chiếu vào một hướng và chỉ một hướng mà thôi.

Là một người bình thường, đứng trước mọi khác biệt chắc chắn ta phải biết, chứ không thể không biết. Ta cưỡi mọt chiếc xe đạp cà rịch, cà tang, chợt thấy bạn ta đi xe hơi đời mới là lập tức ta thấy bạn sang giàu hơn ta. Nếu không thấy biết như vậy, thì ta chẳng còn là người bình thường nữa.

Trang Tử trong một buổi di hành, gặp một vị vương hầu. Vương hầu thấy Trang Tử quần áo rách rưới, chân đi giày bằng dây gai bện, bèn nói:

- Sao tiên sinh nghèo khổ quá vậy?

Trang Tử đáp:

- Tâu bệ hạ, hạ thần nghèo thì có nghèo, nhưng khổ thì không.

Trước hai cảnh đời trái nghịch: Vương hầu thì mũ cao, áo dài, kẻ hầu, người hạ, ngựa trước, xe sau. Còn bản thân thì quần áo, giày dép tiều tụy, xác xơ, chẳng lẽ Trang Tử lại không biết vị vương hầu kia giàu sang hơn mình sao, mà hễ biết là có so chiếu rồi. Nhưng dù có so chiếu Trang Tử không hề vướng mắc vào sự so chiếu ấy. Vương hầu giàu sang là chuyện của vương hầu, Trang Tử vẫn an vui, tùy duyên mà sống. Cái sang giàu của vị vương hầu chẳng ảnh hưởng được đến nếp sống khiêm nhường, thường lạc, tự tại của Trang Tử.

Vậy tuyệt đi mọi so chiếu là điều bất khả thi.Còn chủ trương chỉ trông xuống, chứ đừng trông lên, cũng là điều không thể thực hiện được. Đúng vậy, so chiếu là một vấn đề khó tránh.Vậy làm thế nào để so chiếu dù có xảy ra nhưng ta vẫn không vướng mắc vào những sự so chiếu ấy cho đời bớt phiền não và khổ đau?

- Đường lối duy nhất để vô hiệu hóa mọi sự so chiếu là sống phi thời gian. Sống phi thời gian là sống trọn vẹn với hiện tiền. Không sống phi thời gian tức là không sống trọn vẹn với hiện tiền thì mãi mãi ta vẫn còn là nạn nhân của so chiếu, và phiền não, khổ đau muôn thuở vẫn cứ bám chặt lấy ta để tha hồ xâu xé, dằn vật và hành hạ ta.

GHI CHÚ:

(1) Chấp là nắm giữ, trước là dính gắn.

(2) Quán chiếu: Lấy tư duy mà soi rọi sự việc cho đến chỗ sâu xa cùng tột.

(3) Biết rõ tâm tư người khác.

(4) Mười hai cung trong một lá số Tử vi là: Bản mệnh, cha mẹ, phúc đức, nhà đất, quan lộc, nô bộc, thiên di, tật ách, tiền bạc, con cái, chồng vợ, anh em.

Bài bảy:
CHẾT

Theo Phật học thì chết là một trong tám cái khổ(1) của cõi nhân sinh. Chết cũng là một mối sợ hãi của con người. Đã là sinh vật thì trước cái chết đều sinh lòng sợ hãi. Đàn gà con mới nở được vài ngày, chẳng có một ý niệm nào, một hình ảnh nào về cái chết, ấy mà khi chim cắt, chim quạ xuất hiện, nghe gà mẹ báo động, là chúng vội vàng chạy vào núp dưới cánh mẹ. Nhưng với con người, loài sinh vật có tư tưởng, thì mối sợ hãi trước cái chết lại có một tầm kích khác hẳn. Nó triền miên và sâu đậm vô cùng. Con người luôn luôn tham sống sợ chết. Sự sợ hãi trước cái chết không phải chỉ ám ảnh những người bệnh hoạn, già yếu, gần đất xa trời, mà nó ám ảnh hầu hết, dĩ nhiên nỗi ám ảnh đó có mức độ khác nhau tùy theo đối tượng. Một người biết mình gần kề cái chết, thì mối sợ hãi kia lên đến cực điểm. Tôi đã từng thấy những người khi biết mình mắc bệnh nan y, như ung thư chẳng hạn, thì sự sợ hãi trước cái chết làm cho tinh thần và thể xác họ sa sút hết sức mau chóng. Thần sắc họ thay đổi từng ngày. Ngoại hình họ suy thoái thật là rõ rệt. Chính sự sợ hãi đã làm gia tốc cái chết.

Khi còn trẻ trung, mạnh khỏe, mối sợ hãi về cái chết tuy không rõ nét, nhưng cũng bàng bạc trong mọi sinh hoạt của con người. Làm gì con người cũng tính đến biện pháp an toàn. Khi chợt đau yếu, bệnh hoạn, con người đôn đáo lo tìm thầy hay, thuốc tốt, ngoài ra lại còn tìm đến các nơi thờ phụng để cầu xin các đấng siêu hình phù hộ cho bách bệnh tiêu tán, vạn bệnh tiêu trừ. Khi lắm tiền nhiều bạc, hay khi nắm giữ một chức vụ quan trọng, con người tìm thuê thám tử, hay cắt cử, bố trí vệ sĩ để giữ gìn an ninh cá nhân. Tại Việt Nam trong lúc đất nước còn chiến tranh quốc cộng, tôi đã gặp rất nhiều quân nhân nhà nghề, sĩ quan có, hạ sĩ quan có, binh sĩ cũng có, đeo trong mình răng nanh heo rừng, hay những lá bùa mà ông thầy nào đó đã ban tặng cho họ, vì họ tin rằng những vật ấy che chở họ, tránh cho họ hòn đạn, mũi tên nơi chiến địa. Tôi cũng đã thấy nhiều vị khi có những chuyến đi lắm rủi ro, thường hay nhờ thầy bấm độn, coi quả chọn cho được ngày tốt, giờ lành, để xuất hành cho có an toàn. Và ở đâu cũng vậy, thời nào cũng thế, mỗi khi đất nước lâm nguy vì nạn ngoại xâm, mặc dù thanh niên ý thức rõ ràng nghĩa vụ cứu nước thiêng liêng của họ, họ phải cầm súng chống giặc, bảo vệ tổ quốc, nhưng cũng không ít người tìm mọi cách trốn tránh quân dịch. Nếu không trốn tránh được và đã nhập ngũ rồi thì thường họ lại cầu mong được công tác tại hậu phương, thay vì phải xông pha tiền tuyến.

Lại nữa, mỗi lần đi coi tướng số mà được thầy tướng đoán số rằng số có thọ tinh, hay hình hài, cốt cách có thọ tướng thì trong lòng lại thấy vui sướng, hân hoan, trái lại nếu được đoán rằng có số yểu tử thì đâm chán nản, buồn rầu, lo sợ.

Trong cổ thời bên Trung Quốc đã có những vị vua chúa và đạo sĩ bỏ công, bỏ của luyện thuốc trường sinh bất tử.

Tất cả mọi việc làm trên đây đều là phản ứng của sợ hãi trước cái chết, một sự sợ hãi ngấm ngầm thường trực, gặm nhấm, và soi mòn thần lực của con người. Tại sao con người lại sợ chết, mặc dù chẳng ai biết cái chết thật sự như thế nào. Có bao gì ta lại sợ hãi một cái gì mà ta chưa hề biết nó ra sao đâu. Thế mà ta lại sợ chết, một vấn đề mà ta không hề có một chút xíu kinh nghiệm. Chưa có ai đã từng chết một thời gian dài, đã đích thân nhận diện được cái chết rồi sống lại, nói cho mọi người biết, để ít ra trên phương diện ngôn từ ta cũng có một vài ý niệm về nó, nhiên hậu ta mới thấy được cái chết có đáng sợ không, và đáng sợ tới mức nào.

Ở Hoa Kỳ có một vị bác sĩ thường đến nhà xác các bệnh viện, lấy xác những người được các y sĩ điều trị cho là đã chết, rồi dùng máy defibrillator để kích thích tim mạch làm cho xác chết sống lại. Ông đã thành công trong nhiều trường hợp. Những người sống lại đều được ông phỏng vấn để tìm hiểu cái mà ông gọi là “near death experiences” viết tắt là NDE mà tôi tạm dịch là cận tử nghiệm. Những người được phỏng vấn kể lại cho ông ta nghe những gì mà đương sự trải qua. Nhưng tiếc rằng những điều mà ông tổng kết được sau khi phỏng vấn nhiều đối tượng khác nhau, không phải là những kinh nghiệm của con người về cái chết, vì các đương sự chỉ mới chết nửa vời, chứ chưa thật sự đi vào cõi chết. Nếu quả các đương sự đã dứt khoát đi vào cõi chết thì vị bác sĩ kia cũng chẳng có cách nào mà phục sinh được những thây ma ấy. Cận tử nghiệm (near death experiences) không thể nào lại là tử nghiệm (death experiences) được. Còn các nhà khoa học thì đến nay vẫn còn khoanh tay trước cái chết. Họ hoàn toàn không biết gì về cái chết. Chết vẫn là vùng đất cấm đối với khoa học.

Phải chăng con người sợ chết vì biết rằng cái chết không thể tránh được, trước sau, sớm muộn cũng phải chết, trong lúc con người lại không hay biết gì về cái chết nên đâm ra hoang mang, sợ hãi chẳng?

Hay con người cho rằng chết là hết, là chấm dứt cái “tôi” trong khi lại mong muốn cái “tôi” được trường tồn nên đâm ra sợ hãi chăng?

Hay là do cả hai lý do này?

Thông thường, người ta quan niệm rằng con người gồm có hai phần: vật chất và tinh thần còn gọi là danh và sắc, tâm và vật, xác và hồn. Chết thì phần xác tan rã, cát bụi trở về cát bụi. Nhưng còn phần hồn thì sao? Sẽ đi về đâu? Trước những câu hỏi này, tư tưởng liền phóng ra những hình ảnh về cõi âm có địa ngục, có quỷ sứ đầu trâu, mặt ngựa, chuyên hành hình những linh hồn tội lỗi bằng những hình phạt vô cùng dã man, như cắt lưỡi, cưa đầu, chặt chân tay, hay ném vào dầu sôi, lửa bỏng làm cho cái chết lại thêm phần đáng sợ.

Trước mối sợ hãi triền miên và phổ biến này, đã có nhiều triết học và tôn giáo đưa ra triết thuyết này, giáo lý nọ nhằm xua tan, hay ít ra cũng giảm thiểu đi mối lo sợ thường trực đè nặng lên tâm tư con người từ khi con người xuất hiện trên hành tinh này, và sẽ vẫn tồn tại khi con người còn tồn tại.

Trang Tử chẳng hạn, trong thiên “Tề Vật Luận” của “Nam Hoa Kinh” khi bàn về sự bình đẳng giữa sống và chết có nói: “Trong trời đất chỉ có một cái sống. Cái sống ấy như lửa, xác thân ta như cây củi. Lửa truyền từ cây củi này sang cây củi khác, truyền mãi không tắt, cũng như cái sống truyền từ xác thân này sáng xác thân khác vô tận, vô cùng.

Sống và chết chẳng qua là một biến hóa, một tiểu biến hóa trong cái đại biến hóa của trời đất. Chết là chuyển từ một cảnh này sáng một cảnh khác. Nếu trong sự chuyển đổi này mà ta sinh lòng sợ hãi thì chẳng khác gì nàng Lệ Cơ khi lên kiệu hoa về làng hoàng hậu nước Tấn thì khóc lóc thảm thiết, nhưng khi đến nơi, vui với cảnh cung vàng, điện ngọc, đắm say duyên mới nồng nàn thì lại hối hận giọt lệ ngày xưa và không chịu trở về quê cũ. 

Sống chết đã nằm trong lẽ biến hóa vô cùng của trời đất, thì việc sống chết của ta chẳng khác gì một lữ khách trên đường vân du ngoạn cảnh, càng đi càng gặp cảnh mới, và cảnh mới nào cũng đẹp, cũng xinh, chớ nên để cảnh nào trói buộc mình, giữ chân mình, vì trên đường đi tới còn bao nhiêu cảnh đẹp hơn nhiều đang chờ đợi ta.

Ta chẳng nên ham sống sợ chết làm gì. Chết chưa hẳng là đáng sợ. Khi đang còn sống thì ta sợ chết. Nhưng khi chết rồi thì biết đâu ta lại chẳng sợ sống. Nếu ở cõi chết có thần linh nào đòi đưa ta về cõi sống, biết đâu ta lại chẳng sợ hãi và tìm mọi cách trốn tránh, như khi ở cõi sống ta sợ hãi và trốn tránh cõi chết vậy. Ai biết thản nhiên mà đến, thản nhiên mà đi thì còn làm gì có vấn đề sống chết nữa”.

Còn các tôn giáo thì lại nói về một cuộc sống ở một cõi khác, một cuộc sống vĩnh cứu và hạnh phúc tuyệt đối danh cho linh hồn những người có thiện tâm và có đức tin vào đấng tối cao.

Phật giáo thì đưa ra thuyết luân hồi. Thuyết này chủ trương rằng con người chết đi, lại đầu thai để sống một cuộc sống kế tiếp khác và cứ thế trôi lăn cho đến bao giờ nghiệp tận, duyên cùng mới thoát khỏi sanh tử, tử sanh. Ngoài ra, Phật giáo cũng có nói đến cảnh giới Niết Bàn, đến Tây phương Cực lạc dành cho những linh hồn trong trắng, thánh thiện.

Triết học và tôn giáo đã làm giảm thiểu nỗi sợ hãi của con người trước cái chết. Nhờ triết học và tôn giáo, con người mới thấy rằng cái chết không phải đáng sợ như người ta nghĩ. Cái chết không phải là hết, là chấm dứt cái “tôi”. Người theo Thiên chúa giáo, Tin lành giáo chẳng hạn, cứ dốc lòng hành đạo, dốc lòng tin tuưởng vào đấng tối cao, thì sau khi chết sẽ lại có ngay một cuộc sống khác huy hoàng, hạnh phúc trong cảnh trời vĩnh cửu. Còn Phật tử mà cứ tinh tấn hành trì Phật pháp thì sau khi chết, sẽ đầu thai và sống một cuộc sống tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn nhờ tích phước trong khi hành đạo tại kiếp này.

Con người chỉ cần nói cho biết rằng, chết không phải là điểm tận cùng mà là khởi điểm của một sự sống khác, nghĩa là có sự liên tục của cái “tôi” là sự sợ hãi trước cái chết chắc chắn sẽ giảm đi nhiều. Con người đến với tôn giáo này, tôn giáo nọ, chỉ cốt tìm một lời giải đáp siêu hình cho câu hỏi: “Chết sẽ đi về đâu?”, và cầu xin một sự cứu rỗi, cứu độ, để khi mãn kiếp, tròn đời sẽ được đón về một cõi huy hoàng, hạnh phúc nào đó.

Sợ hãi trước một cái chết giảm thì có giảm, nhưng chưa dứt. Nó vẫn còn đó, vẫn day dứt, vẫn hành hạ. Tại sao vậy? Có cách nào dứt được mối sợ hãi thường trực và cố hữu này không?

Thông thường ta không bao giờ lại sợ hãi một cái gì mà ta không hề có kinh nghiệm hay một hình ảnh nào về cái đó.

Như trên đã nói, chúng ta chẳng ai có được kinh nghiệm về cái chết mà chúng ta vẫn sợ chết. Sở dĩ vậy, chính vì ta có lưu giữ trong ký ức một số hình ảnh về cái chết.

Đúng vậy, ta đã trông thấy những xác người chết vì tai nạn xe cộ nằm cong queo bên vệ đường, máu me loe loét. Ta đã trông thấy nhiều xác chết cứng lạnh, trẻ có, già có, thân hình teo tóp, da dẻ xám ngoẹt nằm ngay đơ trước thân nhân, họ hàng đang khóc lóc thảm thiết. Ta cũng đã từng chứng kiến những người chết vì bom đạn, chết chẳng toàn thây, mỗi nơi mỗi mảnh. Ta cũng đã từng thấy những xác chết được đưa vào lò thiêu hay đem đi chôn sâu trong lòng đất. Ta cũng thấy những xác chết không được chôn cất kịp thời, dòi bọ lúc nhúc và hôi thúi bốc mùi.

Ta sợ chết mỗi khi ta nghĩ rằng những hình ảnh khủng khiếp mà ta có trong ký ức kia sẽ đến với ta. Ta hiện đang sống ở đây và vào giờ này, nhưng những hình ảnh ấy đang chờ đợi ta ở một không gian nào đó và nhất định rồi đây ta sẽ phải gặp chúng ở một thời điểm nào đó trong tương lai xa hay gần. Chính chỉ vì thế mà sinh lòng sợ hãi đấy thôi. Chừng nào mà ta còn lưu chấp những hình ảnh về cái chết, chừng nào mà ta còn quan niệm rằng sống nay mà chết ở mai sau, thì sợ hãi vẫn còn. Nói khác đi chừng nào ta còn kẹt vào vòng lệ thuộc của không gian, thời gian thì sợ hãi nói chung, trong đó có sợ hãi về cái chết, vẫn còn đè nặng tâm tư ta, làm tiêu hao năng lượng và thần lực của ta.

Trên thực tế, chết là một mặt của sự sống. Sống và chết như hai mặt của một đồng tiền. Có cái nọ thì lập tức có cái kia. Sống và chết chẳng bao giờ rời nhau. Khi ta vừa mới sanh ra là cái chết đã có mặt ở trong ta. Nếu không có cái chết nằm sẵn, thì cái sống không có điều kiện phát triển. Đúng vậy, khi thân xác ta đang sống thì các tế bào, các thành phần cấu tạo nên thân xác, cứ lần lượt chết đi. Nếu các tế bào không chết đi thì đứa trẻ nằm nôi vẫn cứ mãi nằm nôi. Nó chẳng bao giờ có thể trở thành một thanh niên, trai tráng được. Cũng trong lúc thân xác ta đang sống thì các hồng huyết cầu trong cơ thể cứ theo nhau tự hoại diệt. Đời sống một hồng huyết cầu vào khoảng một trăm hai mươi ngày. Nếu hồng huyết cầu không chết đi như thế, thì cái sống của thân xác cũng khó mà tồn tại. Rõ ràng cái chết chẳng phải ở tương lai đâu. Nó ở ngay hiện tiền cùng với cái sống. Nó cũng tự nhiên như cái sống vậy. Sống chết quyện vào nhau, bổ tưc cho nhau, chứ không phải sống và chết là hai hiện tượng cách ly về phương diện không gian và thời gian. Cái mà ta gọi là sống thực ra chưa bao giờ rời cái chết. Cái mà ta gọi là chết chính lại là điều kiện cho cái sống phát triển.

Trang Tử trong thiên “Tri Bắc Du” phát biểu về sống chết cũng nói:

Sinh giả tử vi đồ
Tử gia sinh vi thỉ.

và:

Nhược sinh tử vi đồ
Ngô hựu hà hoạn.

Nghĩa là con người mới sinh ra, cái chết đã theo liền. Chết đi chính là khởi đầu một cuộc sống mới. Nếu sống chết đã không hề rời nhai thì ta chẳng nên lo âu trước cái chết làm gì.

Tóm lại, để thoát khỏi sợ hãi trong đó có sợ hãi về cái chết, thì không có đường nào khác là sống phi thời gian, phi không gian, tức là sống trọn vẹn với hiện tiền. Sống như vậy thì lập tức giải thoát khỏi hiền não, khổ đau và sợ hãi. Sinh tử chẳng còn vấn đề dày vò, hành hạ ta nữa. Nói khác đi phi tư tưởng tức giải thoát khỏi sinh tử vậy.

GHI CHÚ:

(1) Tám cái khổ là: sinh, già, bệnh, chết, yêu thương xa lìa, thù ghét gặp gỡ, cầu không được ước không nên, ngũ ấm xí thạnh.

Bài tám:
TÂM VÔ TRỤ

Tâm vô trụ là tâm vô niệm, là tâm nhất tướng, là tâm vô nhiễm. Tâm vô trụ là tâm phi thời gian, phi không gian, là tâm hiện tiền, vì chỉ có những gì ở ngay hiện tiền mới xuất hiện nơi tâm vô trụ mà thôi. Còn những gì đã thuộc về quá khứ, thì tâm vô trụ không hề lưu chấp một dấu vết nhàu. Tâm vô trụ không phải là một kho chứa then cài, khóa đóng, mà chỉ như một căn nhà trống trải, rỗng không, người đến rồi người đi, vật đến rồi vật đi. Với tâm vô trụ thì “sự lai nhi tâm tùy hiện, sự khứ nhi tâm tùy không”(1). Người ta ví tâm vô trụ như một tấm gương. Mọi cảnh vật, mọi hiện tượng trước gương đều in hình đầy đủ trong gương. Nhưng một khi thay đổi vị trí thì gương chỉ phản chiếu những cảnh vật, những hiện tượng ở vị trí mới, còn những gì ở vị trí cũ thì gương không hề lưu lại một hình ảnh nào.

Để minh họa cái tâm vô trụ, nhà đại thi hào Trung Quốc, ông Tô Đông pha đã viết: “Nhạn quá hàn đàm, nhạn khứ nhi đàm vô lưu ảnh. Phong lai sơ trúc, phong khứ nhi trúc bất lưu thanh”. Nghĩa là: Khi nhạn bay qua đầm nước lạnh, thì bóng nhạn in hình trong đầm nước. Nhưng khi nhạn bay qua rồi, thì đầm đâu có lưu giữ hình ảnh nào của nhạn nữa.

Khi gió thổi vào bụi trúc thưa, gây tiếng xào xạc trong bụi trúc, nhưng khi gió đã đi rồi, thì bụi trúc trở lại hoàn toàn im lặng, chẳng lưi giữ lại một tiếng động nào đã gây ra trước đó.

Mặt nước đầm lạnh kia, và bụi trúc thưa nọ biểu tượng cho cái tâm vô trụ.

Trong thiền môn của Nhật Bản có câu chuyện sau: Một bữa nọ, hai hành giả thiền tông, Tanzan và Ekido, trong một chuyến di hành, chẳng may gặp trời mưa lớn. Tới một quãng đường lầy, bùn nước nhớp nhơ, thì hai người gặp một thiếu nữ xinh đẹp, mặt hoa, da phấn, quấn áo lụa là, đang đứng phân vân chẳng biết làm sao mà vượt qua được quãng đường lầy dơ bẩn này. Thấy cô gáo gặp cảnh khó khăn, nan giải, lập tức Tanzan lại gần, cúi đầu chào và xin phép cô gái, rồi đưa tay bồng cô qua quãng đường lầy. Cô gái cám ơn Tanzan, rồi ra đi. Về phần Tanzan và Ekido, thì cũng tiếp tục cuộc hành trình của mình.

Tối đến, hai người ghé vào nghỉ tại một ngôi đền. Ekido nhân lúc nghỉ ngơi mới mang chuyện ban ngày ra phê bình Tanzan. Ekido nói: “Chúng ta là những nhà tu hành, thế mà không hiểu đạo hữu nghĩ sao lại bồng bế một thiếu nữ như vậy. Đạo hữu không thấy rằng làm như thế là phạm giới và bị người đời dị nghị sao?”

Tanzan đáp: “Tôi có bồng cô gái qua quãng đường lầy, nhưng bồng xong, tôi đã bỏ nàng tại chỗ, không ngờ đạo hữu còn bồng nàng về đến tận đây!”

Tâm của Tanzan là tâm vô trụ. Người có tâm vô trụ thấy việc gì cần làm thì làm. Làm xong rồi bỏ, chứ không lưu chấp việc đã làm. Người có tâm vô trụ cũng giống như người đã nhuần thấm tinh thần vô vi của đạo Lão. Vô vi chẳng phải là không làm, mà vô vi có nghĩa là làm mọi việc, không gì không làm (dĩ nhiên là làm trong tinh thần tỉnh giác), nhưng làm rồi thì như thể không làm, làm rồi bỏ, in tuồng như không có người làm và không có việc đã làm, một lối hành xử ly năng, tuyệt sở, một lối hành động trong tinh thần vô tư tuyệt đối (désintéressement total).

Tuy nhiên, tâm vô trụ vẫn khác xa so với mặt gương, mặt đàm nước lạnh, hay bụi trúc thưa, hay căn nhà trống. Vì tâm vô trụ tuy không in dấu các sự kiện đã qua, việc đến thì tâm có, việc đi thì tâm lại không. Nhưng không mà có, các sự kiện qua đi, đã chìm sâu trong quá khứ, tuy không dính cứng vào tâm vô trụ, nhưng một khi cần đến thì những sự kiện kia lại hiện ra rõ nét trong tâm vô trụ không thiếu, không sót.

Tâm vô trụ là tâm thanh tịnh, là tâm giải thoát. Cuộc sống của con người thiếu gì những khoái lạc, khổ đau và sợ hãi vật lý. Nếu không có tâm vô trụ, thì tuy đã qua rồi, nhưng những khoái lạc, khổ đau và sợ hãi ấy vẫn hiện diện, đeo cứng để rồi dấy lên trong tâm ta những ham muốn, thèm thuồng, biến cuộc sống thành biển khổ, thành địa ngục trần gian. Nói ngắn lại vô trụ tức giải thoát.

Nhưng làm thế nào để có tâm vô trụ?

Theo Phật giáo thì muốn có tâm vô trụ phải vứt bỏ sở trụ. Trụ là đứng, là nương tựa. Sở trụ là chỗ để đứng, vật để đứng, chỗ để nương dựa, vật để nương dựa. Nếu sở trụ đã phá bỏ rồi, thì còn làm thế nào mà trụ được nữa. Chỗ đứng, vật để đứng, chỗ nương tựa, vật để nương tựa đã không còn, thì làm sao ta có thể đứng, có thể nương tựa được nữa. Nói khác đi, cái hậu quả tất nhiên của vô sở trụ là vô trụ.

Phật giáo dạy pháp vô sở trụ trong kinh Kim Cang. Là Phật tử, nếu không tụng đọc kinh này thì chắc ít nhiều cũng nghe nói tới. Tinh thần chủ đạo (idée maîtresse) của kinh là vô sở trụ. Các nhà nghiên cứu Phật giáo, cũng như các nhà chú giải kinh Kim Cang, đều nhất trí cho rằng, nội dung chủ yếu của kinh nằm ở điểm vô sở trụ, và nội dung chủ yếu này được tóm gọn trong câu chìa khóa tuyệt vời là: Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”.

Nghĩa là nên vô sở trụ để chân tâm phát sinh, chân tâm là tâm vô trụ, là tâm giải thoát. Theo tinh thần của kinh Kim Cang thì Phật tử hay các vị tu sĩ Phật giáo khi hành trì Phật pháp phải lấy “vô sở trụ” làm kim chỉ nam. Nếu không vậy, thì việc tu hành không có kết quả. Trong kinh có dạy rõ, là các Phật tử tu hạnh Bồ tát khi hành lục độ thì phải hành trì như thế nào để đạt đến cứu cánh giải thoát.

Lục độ còn gọi là sáu Ba la mật gồm có:

  1. Bố thí
  2. Trì giới
  3. Nhẫn nhục
  4. Tinh tấn
  5. Thiền định
  6. Trí huệ.

Bắt đầu là hạnh bố thí, kinh Kim Cang dạy như sau: “Bồ tát ư pháp, ưng vô sở trụ, hành ư bố thí”. Nếu không vì nhịp bốn của thể văn cổ Trung Quốc thì ta có thể viết lại cho dễ hiểu như sau:

Bồ tát hành ư bố thí, ưng vô sở trụ ư pháp (bố thí), nghĩa là Bồ tát tu hạnh bố thí thì không nên có sở trụ là pháp bố thí. Nói khác đi, hành giả không nên trụ vào pháp tu, mà pháp tu cũng không nên trở thành sở trụ cho hành giả. Nếu còn có pháp tu và có người hành pháp tu ấy thì còn vướng mắc dài dài. Tu mà như thể không tu mới thật là tu.

Tu mà như thể không tu thì cuộc sống người hành đạo mới thật sự hồn nhiên, từ đó tâm mới hoàn toàn vắng lặng, thanh tịnh. Khi tâm thanh tịnh thì huệ mới khai, và hành giả mới ngộ được trí Bát nhã siêu phàm.

Năm độ còn lại cũng phải được hành theo tinh thần vô sở trụ, như vậy có nghĩa là:

Bồ tát ư pháp, ưng vô sở trụ, hành ư trì giới cho đến: Bồ tát ư pháp, ưng vô sở trụ, hành ư trí huệ.

Tất cả sáu độ đều không là sở trụ của hành giả, thì hành giả còn trụ vào đâu. Tức là về mặt pháp tu thì vô sở trụ, về mặt hành giả thì vô trụ. Có tu hành đúng như kinh dạy, thì việc tu hành mới mang lại kết quả tốt đẹp được.

Muốn vô trụ thì phải vô sở trụ. Thật là hợp lý. Thật đơn giản. Nhưng làm thế nào để vô sở trụ?

- Về phương diện tâm lý thì năng trụ và sở trụ là một. Người tư tưởng (the thinker) và tư tưởng (the thought) là một. Nếu không có sở trụ thì năng trụ cũng không. Nếu không có tư tưởng thì người tư tưởng cũng không. Và tư tưởng là những hình ảnh do năm giác quan của ta (mắt, tai, mũi, miệng và thân) trong quá trình tiếp xúc với ngoại giới còn lưu giữ lại.

Chẳng hạn ta có dịp may mắn đặt chân tới một nơi cung vàng, điện ngọc nào đó, được thết ăn những của ngon, vật lạ. Khi ra về thì trên thực tế, chuyện này đã chấm dứt và chấm dứt vĩnh viễn. Nhưng chết nỗi, hình ảnh lộng lẫy nơi cung điện kia, vị ngon ngọt của những món ăn quý hiếm ấy vẫn còn dính cứng, bám chặt làm cho tâm ta đôi lúc bồn chồn thèm khát muốn tái lập khoái lạc ấy. Rõ ràng năng trụ và sở trụ là một và ngôn ngữ thời thượng gọi là tư tưởng. Tư tưởng như ta đã biết là thời gian. Vậy phi thời gian thì tư tưởng tự nhiên ngưng dứt và người tư tưởng cũng chẳng còn. Muốn phi thời gian thì hãy sống trọn vẹn với hiện tiền. Sống trọn vẹn với hiện tiền rồi thì pháp tu chẳng còn là sở trụ, và hành giả cũng chẳng còn là người trụ. Đúng là không có pháp tu và cũng không có người hành pháp tu nữa. Vấn đề gút lại chỉ còn là thoát khỏi sự trói buộc của thời gian mà thôi. Cứ phi thời gian là sở trụ tự nhiên tan biến. Sở trụ không bao giờ có mặt ở hiện tiền cả.

Ta có thể tóm tắt như sau:

Trụ + sở trụ = tư tưởng
Tư tưởng = thời gian
Phi thời gian = phi tư tưởng
Phi tư tưởng = phi trụ + phi sở trụ
Phi trụ + phi sở trụ = tâm vô trụ
Tâm vô trụ = chân tâm

Chân tâm là tâm thanh tịnh, là tâm giải thoát.

Nói ngắn lại, nếu còn có năng trụ và sở trụ thì hành giả còn hành đến pháp nào được coi là vô thượng, thậm thâm, vi diệu đi nữa thì cũng chẳng giải thoát được. Vì năng trụ và sở trụ chính là tư tưởng. Tư tưởng còn thì vướng mắc còn, và con người vẫn bị:

Ma đưa lối, quỷ dẫn đường
Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi.
(Kiều, Nguyễn Du)

GHI CHÚ:

(1) Lời của đại thi hào Tô Đông Pha có nghĩa là việc đến thì tâm có, việc đi thì tâm lại không.

Bài chín:
THIỀN

Những năm gần đây, tại miền Nam Việt Nam, Thiền đã trở thành một phong trào khá sôi nổi. Danh từ Thiền được nói đến nhiều. Người ta đua nhau học Thiền. Theo sách báo và thư tín từ nước ngoài gởi về, thì không những ở Việt Nam nói riêng và các nước Đông Á, Nam Á nói chung, mà ngay tại các nước phương Tây, quê hương của duy lý chủ nghĩa, Thiền cũng mỗi ngày mỗi có một địa vị quan trọng hơn. Vậy Thiền là gì và thế nào là hành Thiền?

Thiền là phiên âm của từ Phạn ngữ Dhyana, trọn chữ phải gọi là Thiền na. Trong tiếng Phạn, từ Dhyana có nghĩa là đốt cháy, nên Thiền là một phương cách, một đường lối đưa dẫn hành giả tới một tâm thái yên nghỉ, tĩnh lặng, sáng suốt, trong đó mọi cội nguồn của phiền não, khổ đau và sợ hãi, những tấm màn ngăn che chân lý, đã bị đốt cháy hoàn toàn.
Vì Thiền nhằm loại bỏ các trạng thái lăng xăng, vọng động vốn có của tâm, để tâm trở nên định tỉnh, nên còn gọi là Thiền định.

Có người cho rằng tu Phật là phải chuyên chú hành Thiền, và Thiền là một pháp môn cao thâm, vi diệu, đồng thời cũng là con đường ngắn nhất để đi tới giải thoát. Nhận xét này không sai. Dịch giả Trúc Thiên, một vị vừa là hành giả, vừa là học giả, trong bài viết thay lời tựa của sách “Sáu cửa vào động Thiếu Thất” cũng khẳng định:

”Trong các ngành Phật giáo, Thiền đứng riêng một chân trời cùng tuyệt, chủ trương chỉ thẳng vào nơi tánh, thấy thẳng tự tánh nơi tâm để tức khắc thành Phật, khỏi phải khổ tu nhiều kiếp. Do đó, Thiền được gọi là tối thượng thừa, nghĩa là cỗ xe tối thượng, đi thẳng vào nước Phật”.

Nhưng điều đáng nói là đa số hành giả đều cho rằng hành Thiền là phải ngồi, và chỉ có ngồi mới là thiền thôi, nên mỗi khi hành Thiền người ta thường tìm đến một nơi thích hợp như thiền đường, tịnh thất, chùa chiền hoặc nơi vắng vẻ, hoặc một căn phòng biệt lập tại nhà riêng, để ngồi theo một tư thế ấn định, nhắm mắt, khóa căn trần, chận đứng sự sống bằng giác quan, tập trung vào một đề tài nào đó, đồng thời ra sức xua đuổi mọi tư tưởng khác, không phải là đề tài, xuất hiện nơi tâm.

Đây là một ngộ nhận, một thiên chấp. Thiền không phủ nhận ngồi, nhưng các tư thế khác của con người như đi, đứng, nằm cũng đều thuận lợi và thích hợp cho hành giả cả. Nếu Thiền nhất thiết phải ngồi, thì các thiền giả không thể hành Thiền toàn thời gian, hoặc nếu có thì đã tự biến mình thành một lớp người hoàn toàn vô dụng về mặt gia đình và xã hội. Ngài Lục Tổ chẳng đã nhấn mạnh rằng: “Ngoại ư nhất thiết cảnh giới, tâm niệm bất khởi, danh vi tọa”, nghĩa là đối với mọi hoàn cảnh tốt xấu bên ngoài mà tâm chẳng khởi suy nghĩ gọi là tọa. Như thế rõ ràng là tâm tọa chứ chẳng phải thân tọa.

Ngài cũng dạy: “Ngoại ly tướng vi thiền, nội bất loạn vi định”, nghĩa là ngoài không vướng mắc hình tướng là thiền, trong chẳng loạn là định.

Chẳng ai tìm được trong Pháp Bảo Đàn kinh một lời nào của ngài khi buộc các đệ tử khi hành Thiền phải ngồi theo một tư thế ấn định nào đó. Câu chuyện sau đây giúp ta hiểu rõ hơn:

Hoài Nhượng, một đệ tử xuất sắc của Lục Tổ, thấy Mã Tổ hằng ngày siêng năng ngồi thiền, mới hỏi: 

- Ông ngồi thiền để làm gì vậy?

Mã Tổ đáp:

- Tôi muốn thành Phật.

Hoài Nhượng không nói gì, bèn lượm một viên ngói và mài lên một phiến đá gần đó. Mã Tổ thấy vậy mới hỏi:

- Thầy làm gì vậy?

- Tôi mài ngói để làm gương.

- Mài ngói thành gương thì bao giờ thành được?

- Ngồi thiền để thành Phật thì bao giờ thành được?

Một lần khác, Hoài Nhượng lại nói: “Ông muốn học thiền hay ông muốn thành Phật. Nếu ông muốn học thiền, thì thiền chẳng phải ngồi, chẳng phải nằm. Nếu ông muốn thành Phật thì Phật chẳng có hình tướng nào riêng biệt. Nếu ông cố thành Phật bằng cách xếp chân ngồi thiền thì có khác gì giết Phật. Chừng nào ông còn cố chấp tư thế ngồi này thì không thể đạt được tâm yếu”. 

Lại nữa, Thiền cũng không đòi hỏi một hình thức bề ngoài nào. Mọi hình thức đối với Thiền đều là những đặt bày không cần thiết. Thiền cũng chẳng cho phép bắt chước một ai. Còn bắt chước là còn tìm kiếm mẫu mực, quyền lực mà hậu quả tất nhiên lại là vướng mắc. Thiền giả phải là một khách độc hành hoàn toàn tự do. Có vậy mới mong đạt được tâm thái an nghỉ, tĩnh lặng, sáng suốt, một tâm thái giải thoát.

Để đi đến tâm thái giải thoát này, đức Phật dạy Tứ thiền. Tứ thiền với ba mươi bảy phẩm trợ đạo, tứ không và tứ vô lượng tâm là phép tu của Thanh Văn (Tiểu Thừa). Tứ thiền là bốn bước từ thấp đến cao, mà hành giả lần lượt thực hành:

- Sơ Thiền (bước thứ nhất): Thực hành bước này, hành giả đạt đến hỷ lạc nhờ ly ngoại cảnh. Hỷ là niềm vui mừng hiện ra trên dung mạo. Lạc là niềm vui phơi phới dấy lên trong lòng. Muốn ly ngoại cảnh thì hành giả phải quan sát chi tiết, rành rẽ đầy đủ bề ngoài các pháp thế gian. Phật học gọi việc quan sát ngoại diện này là Tầm hay Thô tư hay Thô tưởng (suy xét một cách thô lậu).

Quan sát ngoại diện như thế chưa đủ, hành giả còn phải quan sát các pháp đến tận nội dung sâu kín, hầu biết được thực chất của chúng. Việc quan sát thứ hai này sâu sắc hơn, triệt để hơn, Phật học gọi là Tứ hay Tế tư hay Tế tưởng (suy xét đến chỗ tinh tế). Một khi biết rõ bộ mặt thật của các pháp bằng Tầm và nội dung, thực chất của chúng bằng Tứ thì hành giả có thể xa lìa được mọi cám dỗ, mọi lôi cuốn của trần cảnh mà đạt được hỷ lạc. Nói khác đi, trong bước đầu Sơ thiền, hành giả đạt được thiền vị(1) “ly sanh hỷ lạc”, tức là hỷ lạc do ly (trần cảnh) mà sanh ra. Ở đây hành giả đạt được niềm vui trong ngoài nhờ xa lìa mọi cảm giác do trần cảnh mang lại. Niềm vui do xa lìa trần cảnh này là bước đầu giải thoát, khác với cảm giác vui mừng quyến luyến trần cảnh đem đến vốn luôn luôn gắn liền với phiền não, khổ đau và sợ hãi.

- Nhị Thiền (bước thứ hai): Trong bước này, hành giả đạt đến hỷ lạc nhờ vào sức định. Nói khác đi trong bước thứ hai này Tầm và Tứ không còn vai trò nào nữa mà ở đây hành giả nhờ tập trung tư tưởng mà đạt đến thiền vị “Định sanh hỷ lạc”, tức là hỷ lạc do định mà sanh ra.

- Tam Thiền (bước thứ ba): Trong bước này, hành giả đi sâu hơn vào định và đạt đến cái vui huyền diệu nội tâm. Ở đây hỷ lạc không còn nữa. Dung mạo của hành giả tự nhiên bình thản, không biểu lộ một niềm vui nào, chỉ còn niềm vui sâu kín vô cùng vi diệu dấy lên trong lòng.

- Tứ Thiền (bước thứ tư): Ở đây tâm hành giả hoàn toàn thanh tịnh vì đã xả bỏ được vọng niệm. Sau khi xả bỏ mọi vọng niệm, tức phi tương tưởng, hành giả đạt đến thiền vị “xả niệm thanh tịnh”, một chứng đắc cao nhất trong Như Lai Thiền.

Về sau, khi Đại thừa ra đời, các tổ Đại thừa đã từ nền tảng của Tứ Thiền mà xây dựng lên Đại thừa Thiền và khai sinh Tổ Sư Thiền, một tòa lâu đài nguy nga, tráng lệ của Phật giáo Đại thừa. Tổ Sư Thiền do Tổ Bồ Đề Đạt Ma du nhập vào Trung Quốc đầu thế kỷ thứ 6, tại chùa Thiếu Lâm trong núi Tung Sơn thuộc tỉnh Hà Nam. Cũng chính chùa Thiếu Lâm này, từ Sơ Tổ Đạt Ma đến Lục Tổ Huệ Năng, Thiền tông đã trở thành hào quang sáng chói của Phật giáo. Nhiều hành giả Thiền tông đã đạt đến những kết quả tuyệt vời mà không một ai trong các tông phái của Phật giáo Đại thừa sánh kịp. Cho nên văn học Phật giáo Trung Hoa và Nhật Bổn đều gọi Tổ Sư Thiền là bước siêu đẳng, là thượng tầng, là cực điểm của đạo pháp.

Thiền, phát triển đến giai đoạn này, đã chiếm giữ một vị trí tuyệt đỉnh trong đạo pháp vì hiệu quả to lớn của nó. Hiệu quả ấy sở dĩ có được là vì Thiền tông đã lấy “phi tư tưởng” làm yếu chỉ hành đạo. Như trên nói trong tứ Thiền, bước thứ tư là bước cao nhất trong Như Lai Thiền, Phật không dạy gì khác hơn là xả niệm, tức ngưng dứt tư tưởng.

Nhưng ngưng dứt tư tưởng, quét sạch mọi lưu dư của nó, thì nó không còn ngự trị, và chi phối tâm tư hành giả làm cho hành giả không thấy được cái tướng chân thật của vạn pháp. Nói cách khác một khi tư tưởng, tấm màn ngăn che chân lý không còn, thì lập tức hành giả trực ngộ được thực tại. Sự trực ngộ đó mới thật là chân kiến. Mọi loại tri kiến không do trực ngộ mà có đều là tri kiến giả dối, sai lầm, vì bị tư tưởng ngăn che, bóp méo, xuyên tạc.

Chân kiến đi đôi với chân tâm. Chân tâm là cái tâm an nghỉ, tĩnh lặng, sáng suốt. Để đi đến tâm thái này, không cần một hình thức nào, một sự giúp đỡ hay chỉ dẫn của bất cứ ai, bất cứ tổ chức nào. Những vị tôn sư thật không cần thiết. Sách vở chẳng còn giá trị, kiến thức, kinh nghiệm đã tom góp chẳng có hiệu lực gì. Tâm thái ấy đòi hỏi một sự thân chứng, độc hành mà thân chứng. Và một khi đã thân chứng thì cái thân chứng ấy có thể gọi là gì cũng được, ở đây gọi là đạo. Cái thân chứng ấy chẳng thể mô tả, truyền đạt được. Vì vậy mà Lão Tử, Trang Tử chủ trương “vô ngôn”. Còn đức Phật sau khi thành đạo đã do dự chẳng muốn mở lời, và Thiền tông thì chủ trương “bất lập văn tự” và “Dĩ tâm truyền tâm”, chẳng muốn sử dụng đến văn tự, ngữ ngôn.

Cái mà thiền giả bắt gặp ấy, chẳng phải là cái gì xa lạ mà chính là cuộc sống, cuộc sống thế gian, cuộc sống giữa chợ đời. Đúng thế “Sống là đạo, ngoài ra không có đạo nào khác. Đạo nào khác đều tìm thánh mà bỏ phàm, đều ham ngộ mà bỏ mê, đều bỏ đời mà cầu đạo, đều tự trói buộc mình”. Chính cuộc sống là Niết Bàn, là cõi giải thoát nếu ta biết sống trọn vẹn với nó.

Đúng vậy, sống trọn vẹn với cuộc sống trong ngoài là chìa khóa, là yếu chỉ hành Thiền, Vì vậy đức Phật truyền dạy suốt bốn mươi lăm năm, đến khi sắp viên tịch ngài chỉ trăn trối các đệ tử nên hành “Tứ Niệm Xứ”. Hành Tứ Niệm Xứ (bốn trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo) là sống trọn vẹn với cuộc sống trong ngoài, là phi thời gian, phi tư tưởng vậy. Thiền tông đã nắm được cái rốt ráo trong lời trăn trối của Phật, nên mới đưa ra khẩu hiệu hành Thiền là vô niệm, hay vô tâm, hay phi tư tưởng, “Phi tư tưởng tức tọa thiền chi yếu dã”(2). Nhờ vậy, Thiền đã đạt những hiệu quả sáng chói. Thiền được coi là thượng thừa, nghĩa là một cỗ xe tối thượng đi thẳng vào nước Phật, vì Thiền chủ trương chỉ thẳng vào nơi tự tánh, thấy thẳng được nơi tâm, để tức khắc thành Phật. Vì vậy mới nói Thiền là con đường ngắn nhất để đi tới giải thoát, một con đường không phải con đường, con đường phi tư tưởng. Cứ phi tư tưởng nghĩa là cứ sống trọn vẹn với hiện tiền tức với cuộc sống thì lập tức phiền não, khổ đau và sợ hãi tự nhiên tan biến và thiền giả đạt ngay đến thiền vị “xả niệm thanh tịnh”. 

Ngài J. Krishnamurti cũng nói: “When you understand the structure of you daily living with its competition, greed, ambition and the search for power then you will see not only the absurdity of theories, of saviours, and gurus. But you may find an ending to sorrow, an ending to the whole structure wich thought has put together. The penetration into and the understanding of this structure is meditation”.

Tôi xin phỏng dịch như sau:

”Khi bạn thấy biết đầy đủ. cuộc sống hằng ngày của bạn, với mọi cạnh tranh, tham lam, khát vọng và sự sục sạo mưu cầu quyền lực, thì bấy giờ bạn không những sẽ nhận ra sự vô bổ của các giáo thuyết, của các đấng cứu nhân độ thế, cũng như của các đạo sư, mà bạn còn bắt gặp sự chấm dứt mọi phiền não, và sự chấm dứt toàn bộ cái cơ cấu mà tư tưởng đã vun trồng xây dựng nên. Sự thấu triệt cơ cấu này chính là Thiền vậy”.

Như vậy theo ngài J. Krishnamurti thì hành Thiền cũng chỉ là sự thấy biết đầy đủ cuộc sống hằng ngày với mọi cạnh tranh, tham lam, khát vọng hay nói khác đi, hành Thiền là thấu triệt tư tưởng của mình. Tư tưởng một khi được thấu triệt thì nó tự nhiên ngưng dứt. Vì vậy, lại một lần nữa ngài J. Krishamurti khẳng định: “Meditation is the ending of thought”(3).

Còn Tổ Bồ Đề Đạt Ma thì nói:

”Thấy thẳng tánh mình thì gọi là Thiền. Nếu chẳng thấy tánh mình, tức không phải thiền vậy. Dầu có nói được ngàn kinh, muôn luận mà không thấy tánh thì vẫn là phàm phu, chẳng phải là pháp Phật”. 

Và:

”Chỉ cần thấy tánh thì dầu không biết một chữ vẫn được đạo. Thấy tánh tức là Phật. Phật là tiếng nước Thiên Trúc (Ấn Độ). Tại đây (Trung Quốc) gọi là giác tánh. Giác tức là linh giác. Ứng đối với cơ duyên, tiếp xúc với sự vật (ứng cơ tiếp vật). Ngẩng mày, nheo mắt, cử động chân tay đều là do tánh linh giác của chính mình.

Tánh tức tâm.
Tâm tức Phật.
Phật tức đạo
Đạo tức Thiền”(4).

Cách nhau trên dưới mười lăm thế kỷ, hai vị thầy vĩ đại (ngài J. Krishnamurti và Tổ Bồ Đề Đạt Ma) cũng chỉ dạy Thiền là sự tỉnh giác trước cuộc sống, không tỉnh giác không phải là thiền dù đi, đứng, nằm, ngồi gì cũng vậy.

Sự tỉnh giác trước cuộc sống trong ngoài thường nhật ấy, đức Phật gọi là chánh niệm. Ngài J. Krishnamurti gọi là “constant awareness”. Sự tỉnh giác ấy không cần ai dạy dỗ, chỉ bảo. Sự tỉnh giác ấy không đòi hỏi thủ tục, hình thức hay phương pháp nào. Nó vốn đơn giản vậy. Chỉ có con người mới mưu toan phức tạp hóa nó. Mọi phức tạp hóa ấy đều là dối gạt.

Về lý thì Thiền chỉ đơn giản như vậy, nhưng về sự, tức hành Thiền một cách miên mật, tinh tấn không xao lãng, không lơi lỏng lại không phải là chuyện dễ dàng, đơn giản. Chắc chắn một khi hành Thiền, các hành giả sẽ thấy rõ điều này. Nhưng dù chưa có hành Thiền được đến mức rốt ráo, miên mật, tinh tấn, thì hành giả cũng sẽ thân chứng một điều là hễ hành Thiền tức sống trọn vẹn với cuộc sống trong ngoài thì lập tức có Niết Bàn, còn hễ mắc kẹt vào thời gian, nghĩa là rời bỏ hiện tiền, thì lập tức tư tưởng xuất hiện và địa ngục tức thì mở cửa. Niết bàn và địa ngục rõ ràng là không có khoảng cách, không có ranh giới. Niết bàn đấy, mà địa ngục cũng đấy.

Sống trọn vẹn với cuộc sống có nghĩa là chú tâm theo dõi mọi hoạt động của thân, khẩu, ý. Cuộc sống này không đòi hỏi một cố gắng nào. Vì có cố gắng là có mặt tư tưởng và cuộc sống sẽ mất vẻ hồn nhiên. Mà hồn nhiên lại chính là Đạo, “bình thường tâm thị đạo”.

Cuộc sống này cũng không đòi hỏi một sự tập trung nào. Vì tập trung tất có loại trừ. Có loại trừ tất có đối kháng, xung đột. Tâm của thiền giả chân chính phải là cái tâm tự nhiên, như nhiên, thoát ly hoàn toàn mọi xung đột, đối kháng.

Một khi đã thoát vòng chi phối của thời gian, thì tư tưởng tự nhiên ngưng dứt, và hành giả lập tức giải thoát, giải thoát hoàn toàn. Tư tưởng ngưng dứt thì thần lực được bảo tồn, vì phiền não, khổ đau và sợ hãi, những yếu tố làm soi mòn thần lực con người không còn nữa. Thần lực được bảo tồn và tích tụ đến mức nào đó, thì trí huệ Bát nhã bừng khai với tất cả vẻ linh diệu tròn đầy của nó. Phật học gọi là là “Thật tướng Bát nhã”. Trí huệ ấy thanh tịnh và sáng soi. Diệu dụng của sáng soi ấy, Phật học gọi là “Quán chiếu Bát nhã”. Cái biết của quán chiếu Bát nhã là cái biết cùng khắp chân chính, nên còn gọi là “Chánh biến tri”, một cái biết đơn phương, đơn cực (connaissance bilatérale ou bipoliare” sặc mùi vay mượn, duyên sanh. Có cái biết ấy, hành giả như một kẻ đui mù, nay bỗng sáng mắt, thoát khỏi cơn trường mộng tối tăm.

Tóm lại, chỉ có hành Thiền, nghĩa là chỉ có “thừa” vào cỗ xe tối thượng này, hành giả mới tức thì giải thoát và mới có cơ may bắt gặp cái mà chư Phật, chư Tổ đã bắt gặp. Đó là sự bùng nổ kinh thiên động địa, biến hành giả thành những bậc đại giác với trí huệ siêu phàm.

GHI CHÚ:

(1) Thiền vị: Mùi thiền, thú vị đạo thiền. Nhà tu hành nhập thiền định lấy làm sung sướng mà thấy thân thể và tinh thần mình được nhẹ nhàng, khỏe khoắn, yên ổn, lặng lẽ một cách thâm thúy vi diệu (Định nghĩa trong Phật học Từ điển của Đoàn Trung Còn).

(2) Phi tư tưởng tức tọa thiền chi yếu dã: Yếu chỉ của việc hành thiền là ngưng dứt tư tưởng.

(3) Thiền là chấm dứt tư tưởng.

(4) Trích trong thiên “Huyết Mạch Luận” của sách “Sáu cửa vào động Thiếu Thất”.

Bài mười:
TÌNH YÊU THƯƠNG

Một hôm có tiếng gõ cửa. Mở cửa ra, bạn thấy một người ngoại hình tiều tụy, xác xơ. Bạn muốn đóng sầm cửa lại cho bõ ghét, nhưng chợt nhận ra y là một người trong thân tộc. Người thân này tuy đã lâu bạn không gặp lại, nhưng có nghe nói là hồi nầy đương sự lâm vào cảnh khó khăn, cùng quẫn vì lỡ vận, sa cơ, đến chỗ đói cơm, rách áo. Bạn miễn cưỡng mời vào, nhưng trong tâm đã nghĩ:

Anh này chắc lại đến vay mượn, xin xỏ gì đây. Không biết thiên hạ nghĩ thế nào mà lại cứ cho mình là giàu có, dư dả, nên hễ gặp khó khăn là tìm đến nhà mình để quấy quả. Tội nghiệp cho mình quá!

Thế là bạn hững hờ, lạnh nhạt, chẳng muốn trò chuyện và cũng chẳng mời khách lấy một ly nước trà theo thông lệ nữa. Sau vài lời thăm hỏi xã giao, người thân ấy cất lời vay mượn bạn một số tiền để có vốn làm ăn, đúng như bạn đã tiên đoán. Khách vừa dứt lời thì lập tức, y như một chiếc máy điện toán, mọi dữ kiện tích lũy từ thuở nào trong người bạn có liên hệ đến người thân kia, được lần lượt đưa ra, và nhanh như chớp, khúc phim được chiếu lại vô cùng rõ nét: 

Anh này trước đây rất giàu có, thừa hưởng cả cái gia tài kết sù do cha mẹ để lại. Nhà hai ba nếp. Tiền bạc như nước. Lên xe, xuống ngựa. Thân tộc xa gần chẳng ai sánh kịp. Cơ nghiệp như thế mà chẳng biêt giữ lấy, lại còn đổ đốn ăn chơi đàng điếm, ném tiền qua cửa sổ để mua lấy những cuộc vui suốt sáng, trận cười thâu đêm, nên nay mới tán gia bại sản. Lúc còn giàu sang hắn có nghĩ gì tới bà con, họ hàng đâu, nghênh ngang, kiêu ngạo, mục hạ vô nhân, khinh khi bằng hữu, quyến thuộc, chẳng muốn gặp ai, chỉ sợ người quen quấy quả, mượn vay. Chính bản thân mình có lần gặp khó khăn tạm thời, tìm đến nhà anh để nhờ gỡ rối, thế mà anh nỡ lòng lánh mặt.

Khúc phim vừa dứt thì bạn lại nghĩ tiếp:

Trước nay mình chẳng vay mượn, nhờ vả gì anh. Nay gặp cơn đen vận túng anh đến gõ cửa nhà mình, mình chẳng có nghĩa vụ gì đối với anh và cũng chẳng có ân huệ nào phải đền đáp cả. Có cho vay, cho mượn thì cũng phải “trông giỏ bỏ thóc”, chứ ai dại gì mà lại đem tiền mồ hôi, nước mắt ném sông, ném biển bao giờ. Với những người biếng nhác, chây lười, ham mê khoái lạc, chẳng biết tính trước lo sau, thì cần phải để cho đương sự có một bài học thấm thía mới được. Đúng vậy, chỉ có khổ đau và nhục nhã mới là ông thầy hữu hiệu nhất thôi. Nay đương sự chưa chắc đã tỉnh ngộ mà vội vàng giúp đỡ thì cũng vô ích. Ngựa lại theo đường cũ ngựa đi. Mình nên từ chối thẳng tay để anh ta có dịp hồi tỉnh, sáng mắt, âu cũng là một việc làm tốt.

Nhưng rồi bạn lại đắn đo:

Nếu mình không giúp đỡ, đáp ứng lời khẩn cầu của đương sự, thì chắc chắn anh ta sẽ gióng trống, khua chiêng trong họ, ngoài làng và mọi người lại đua nhau lên án mình keo kiệt, chỉ biết bo bo giữ của, chẳng biết cứu giúp anh em, dòng họ. Thôi thì đương sự vay mượn, ta chỉ cho một, hai gọi là có cũng được rồi. Như vậy ta cũng tỏ cho mọi người biết là ta có lòng yêu thương quyến thuộc, và chính đương sự cũng chẳng ta thán vào chỗ nào được. Hơn thế, giúp người thì người khác giúp lại mình. Người Anh chẳng đã có những câu ngạn ngữ như:

- Một hành vi tốt chẳng bao giờ lại mất(1).

- Sự tử tế là một cuộc đầu tư chẳng bao giờ thất bại(2).

Thế là bạn quyết định như đã tính toán, tức là cho người thân này vay một chút đỉnh tiền bạc cho qua chuyện. Quyết định này xét ra hợp lý. Hợp lý ở chỗ bảo toàn được thanh danh chẳng ai có thể chê cười. Hợp lý ở chỗ nếu đương sự sau này không có khả năng hoàn trả thì dù mất cũng chẳng bao nhiêu.

Thế rồi, sau khi người thân đó ra về, thì lại một tiếng gõ cửa thứ hai. Khác với trước, lần này mở cửa ra, bạn gặp một khách lạ cực kỳ sang trọng. Trang phục và dáng dấp rõ ra là một bậc thượng lưu. Bạn tưởng khách lầm nhà, nhưng sau được khách xác nhận là khách muốn gặp bạn, thì bạn nghĩ ngay:

Đây hẳn là một nhân vật quan trọng trong chánh giới, hay nếu không thì cũng phải là một doanh gia cỡ lớn. Khách tìm đến nhà mình, chẳng mang danh tới, cũng mang lợi vào. Sự hiện diện của khách chắc là một sự may mắn đến với gia đình mình.

Thế là bạn vồn vã, ân cần để tỏ lòng hiếu khách. Bạn trò chuyện lễ phép, chào mời đon đả, như thể đã cùng khách quen thân từ mấy kiếp rồi.

Lề lối suy nghĩ và hành xử trên này chẳng phải của riêng bạn, mà là hầu hết của mọi người có mặt trên trái đất này. Hẳn sẽ có người cho tôi là ăn nói hàm hồ, vơ đũa cả nắm. Nhưng tôi vẫn khẳng định là tâm lý con người nói chúng là thế. Chẳng phải tâm lý này mới xuất hiện đây, mà biết bao nhiêu thiên niên kỷ rồi, nó vẫn vậy. Nó xuất hiện cùng với con người. Con người có, là nó có và trước sau không thay đổi. Có thể nó bén nhạy hơn, sâu sắc hơn, nhưng chiều hướng và nội dung thì luôn luôn cố định, ấy là: con người lúc nào cũng tham lam, ích kỷ, cũng chạy theo danh, lợi và quyền lực như bao giờ.

Để thỏa mãn tính tham lam, vị kỷ và lòng ham chuộng lợi danh, quyền lực ấy, con người đã không từ một điều gì không làm. Mọi mưu toan tính toán, mọi thiết kế, bày mưu cũng chỉ nhằm thỏa mãn tham vọng của cái “ta”. Cái “ta” đây có thể là cá nhân, mà cũng có thể là tập thể, như phe ta, nhóm ta, đảng ta, nước ta, khối ta v.v… Trước kia với nền văn minh còn thấp kém thì hậu quả không mấy quan trọng, nhưng ngày nay với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, tính tham lam vị kỷ ấy nhiều lúc đã đe dọa cả sự sống còn của nhân loại trên hành tinh này.

Tuy tham lam vị kỷ như thế, nhưng con người lúc nào cũng khéo léo che đậy bản chất ấy. Có nói đến thì con người lại chối cãi, phủ nhận một cách ngoan cố. Con người cũng còn bày ra các hình thức tu hành nói là để tiêu diệt, loại trừ tham, sân, si và nhất là tính tham, cái tính mà con người ai cũng công nhận là xấu xa, là đầu dây, mối nhợ của muôn vàn tội ác. Nhưng có xử dụng hình thức này, hình thức khác, có khoác màu áo này, màu áo khác thì tham lam, vị kỷ vẫn còn đó. Mấy thiên niên kỷ rồi con người theo tôn giáo này, tôn giáo nọ để mong tu tâm, sửa tánh nhưng nào có hiệu quả gì đâu. Gia đình vẫn chán vạn xung khắc. Xã hội vẫn đầy rẫy tranh chấp, tội ác vẫn gia tăng. Cộng đồng nhân loại vẫn rối ren như bòng bong. Đôi lúc người ta đã phải nghĩ rằng thế giới đang trên đà sa sút, suy đồi, nhân loại đang trên khuynh hướng thoái lụi, băng hoại. Có làm gì đi nữa thì cũng chỉ là những biện pháp “ngoài giày gãi ngứa” hời hợt, phiến diện, vì một gia đình ấm êm, hạnh phúc, một xã hội an bình, trật tự, một thế giới hòa bình ổn định chỉ có thể xuất hiện khi có tình yêu thương chân chính mà thôi.

Tình yêu thương là một mỹ từ được con người đua nhau nói tới. Người ta nói đến nào là tình yêu thương nhân loại, tình yêu thương đất nước, đồng bào, nào là tình yêu thương giai cấp, nào là tình yêu thương đồng chủng, đồng nghiệp, nào là tình yêu thương giữa những người trong thân tộc, trong gia đình v.v…

Riêng đối với tôn giáo thì các vị giáo chủ trước đây và các hàng chức sắc trong đạo sau này, thường lợi dụng mọi cơ hội để kêu gọi tình yêu thương một cách rộng rãi, bao quát như yêu thương không phân biệt kẻ thù, người thân, yêu thương cả cỏ cây, muông thú.

Nhưng xét cho cùng, suy cho kỹ, vô tư, thành thật mà xét thì cái mà người đời gọi là tình yêu thương ấy chỉ là một nhóm từ rỗng tuếch của chót lưỡi, đầu môi. Những lời kêu gọi tình yêu thương cũng chỉ là những lời kêu gọi trong sa mạc.

Hơn thế, nhiều khi kêu gọi yêu thương, người ta lại đi đến một kết quả đảo ngược là tiêu diệt yêu thương. Chẳng hạn như lời kêu gọi yêu thương đất nước, yêu thương giai cấp, yêu thương dân tộc v.v… Đã có cái là đất nước ta, giai cấp ta, dân tộc ta, tất phải có cái không phải là đất nước ta, không phải giai cấp ta, không phải dân tộc ta. Ta càng yêu thương cái “ta” bao nhiêu, thì lại càng ghét bỏ cái “không ta” bấy nhiêu. Cái không khí hận thù bao trùm nhân loại từ bao lâu này cũng chính do cái tình yêu thương có tính cục bộ và phân biệt này.

Khi nhận định về mối tương quan giữ các quốc gia trên thế giới, một chính trị gia Pháp đã phải nói: “Nhân loại đã sống trong trạng thái xã hội, nhưng các quốc gia trên thế giới vẫn sống trong trạng thái thiên nhiên”. Trạng thái thiên nhiên là trạng thái của muông thú chốn rừng xanh. Làm gì có tình yêu thương ở chốn sơn lâm ấy, nơi mà vì sự sống còn của chính mình và chủng loại mình, sinh vật này đã ăn thịt các sinh vật khác một cách dã man, tàn bạo.

Chẳng làm gì có tình yêu thương thật sự trên trái đất này, có chăng cũng chỉ là trên bình diện ngôn từ, văn tự mà thôi. Bề ngoài thì giương cao ngọn cờ tình yêu thương, nhưng bề trong thì con người lúc nào cũng mài nanh, dũa vuốt để sẵn sàng tiêu diệt đồng loại vì tham vọng cá nhân, phe nhóm. Đúng là: “Miệng Bồ tát, bụng một bồ dao găm”.

Trên bình diện toàn cầu đã vậy, còn trên bình diện nhỏ hẹp như quốc gia, thậm chí đến làng thôn, xóm ấp thì tình trạng cũng chẳng hơn gì. Người ta cũng phân biệt, cũng kỳ thị địa phương, tôn giáo, sắc tộc, chính kiến. Người ta cũng lập đảng, lập phái, kéo cánh, kéo bè, nhân danh chuyện này, chuyện nọ để thanh toán, đàn áp những người không cùng phe nhóm, hầu chiếm lấy quyền lực, ưu thế mà thủ lợi trên đầu, trên cổ những người khác cho thỏa lòng tham lam cố hữu.

Tóm lại, chẳng làm gì có tình thương yêu chân chánh giữa con người với con người trong các cộng đồng lớn nhỏ. Mỉa mai thay khi nói đến tình yêu thương nhân loại!

Nhưng còn với đôi lứa, với gia đình, quyến thuộc như cha mẹ, con cái, anh chị em ruột thịt thì sao? Liệu giữa những người này có tình yêu thương hay không?

Trong các loại tình yêu thương thì tình yêu thương giữa nam nữ, vợ chồng là mạnh mẽ nhất. Người ta sẵn sàng vượt mọi khó khăn, gian khổ vì người yêu. Người ta sẵn sàng làm mọi việc, kể cả những việc phi nhân nghĩa, phi đạo lý vì người yêu, và người ta sẵn sàng hy sinh vì người yêu.

Tuy thế, tình yêu thương nam nữ cũng chỉ là kết quả của tính toán, so đo. Hai bên nam nữ yêu thương nhau vì mỗi bên có hội đủ một số điều kiện mà bên kia mong đợi. Bên nữ thì nhan sắc, sự đoan trang, đoan chính. Bên nam thì tài năng, bằng cấp, sự nghiệp. Và chung cho cả hai bên thì tuổi tác, phong độ khả ái, tính tình, nết na, sở trường, của cải thụ đắc, khả năng kiếm tiền, sức khỏe, thanh danh, gia thế v.v… Dĩ nhiên những điều kiện này có đổi thay tùy theo trường hợp. Chẳng hạn gặp bên nam ham thích của cải, tiền bạc thì bên nữ giàu có dù không hội đủ mực độ duyên dáng đòi hỏi cũng vẫn có sức lôi cuốn đối phương. Đôi khi một bên vì quá nặng về điều kiện này mà các điều kiện khác lại trở nên lu mờ. Ví dụ với con gái mà sắc đẹp vào hàng chim sa, cá lặn lại gặp bên nam hiếu sắc thì tất cả các điều kiện như thanh danh, gia thế, của cải thụ đắc, tính nết v.v… thậm chí đến tuổi tác cũng trở nên không đáng kể.

Dù bề nào đi nữa, dù muốn nói gì thì nói, tình yêu thương giữa nam nữ cũng vẫn là sự gặp gỡ của các điều kiện. Bạn đâu có yêu thương bất cứ người khác phái nào. Gặp trường hợp ông Adam và bà Eva thì chẳng nói làm gì, còn trường hợp một bên có hai ba đối tượng để theo đuổi, thì nhận định trên trở nên dễ hiểu. Bạn cân nhắc, đối chiếu, suy trước, nghĩ sau, bù qua, sớt lại rồi mới đi đến một quyết định mà bạn gọi là yêu thương.

Kể cả trường hợp mà người ta quen gọi là tiếng sét ái tình, nghĩa là một người trai gặp một gái là yêu liền, yêu mê mệt, yêu bất chấp, chẳng đếm xỉa đến bất cứ một điều kiện nào, thì ngay trong trường hợp hiếm hoi này người bạn gái kia cũng phải là một mẫu người hợp với những điều kiện của một người yêu lý tưởng mà người trai đã hằng ôm ấp từ lâu.

Càng dễ hiểu hơn nữa, khi ta thấy những đôi trai gái yêu thương nhau tha thiết, keo sơn, gắn bó, nhưng đến khi thành vợ, thành chồng thì chẳng bao lâu lại thay lòng, đổi dạ, thù hằn ghét nhau. Trên bình diện quan sát, dò xét để đánh giá, bạn có thể lầm lẫn, và bạn cũng không có khả năng dò xét đối tượng cho đến ngọn nguồn, lạch sông. Nên khi gần gũi, chung sống, bạn mới phát hiện ra những thiếu sót ấy nơi người bạn đời. Có những điều kiện bạn tưởng là có, thì lại hóa ra không. Có những điều kiện bạn ngỡ tròn đầy thì thực tế lại khiếm khuyết. Thế là cái gọi là tình yêu thương phai lạt, tan vỡ, vì nhưng điều kiện làm cơ sở, nền móng cho nó không còn hội đủ.

Nhưng ngay với các cặp vợ chồng có cuộc sống chung gọi là hạnh phúc, thì cũng chưa chắc đã phải là họ yêu thương nhau mà là họ cần nhau, vì đôi bên đều có những nhu cầu muốn thỏa mãn và đã được thỏa mãn ở một mức cao như nhu cầu danh vọng, của cải, nhu cầu sinh hoạt trong tổ ấm gia đình, nhu cầu có con cái nối dõi, nhu cầu sinh lý, nhu cầu nương dựa vào nhau v.v… Ai cũng biết cuộc sống có lúc này, lúc khác, lúc trăng sáng, lúc tắt lửa tối đèn, lúc thăng trầm, lúc mạnh khỏe, lúc yếu đau. Ấy chưa kể đến những trường hợp bề ngoài vợ chồng vẫn cơm lành, canh ngọt tưởng như có hạnh phúc, nhưng bề trong họ phải cắn răng chung sống vì một lý do nào đó, như tương lai con cái, như danh dự cá nhân, như thanh danh gia đình, dòng họ, hay vì một thế kẹt nào đó mà chỉ họ mới biết.

Nếu tình thương yêu giữa nam nữ mạnh mẽ nhất, thì tình thương yêu giữa những người cùng huyết thống như cha mẹ với con cái, như anh chị em với nhau, lại tự nhiên nhất, tự nhiên như mây trời, sóng biển, không khiên cưỡng, không giả tạo. Vì tự nhiên nhất, cơ bản nhất và nẩy nở sớm nhất, nên còn được coi là một loại tình cảm thiêng liêng. Tuy thế, có cũng không phải là tình yêu thương đúng nghĩa, ít nhiều vẫn có mưu toan, tính toán lẻn vào.

Còn nhưng bậc cha mẹ mình thì quan niệm “dưỡng nhi đãi lao”, nghĩa là nuôi con chờ lúc tuổi già, coi việc nuôi dưỡng và giáo dục con cái như đem tiền bạc gởi quỹ tiết kiệm, hay như một cuộc đầu tư. Ta thấy có những bậc cha mẹ thường công khai tuyên bố với đứa con này, mà không hạp với đứa con khác. Sinh con ra, cha mẹ thường gởi gắm bao nhiêu hy vọng vào con, muốn con mình phải thế này, phải thế nọ. Hạp hay không, hạp ít hay hạp nhiều là tùy ở con nào đáp ứng được hay không, đáp ứng nhiều hay ít niềm hy vọng ấy.Vì vậy cha mẹ đâu có yêu thương tất cả những đứa con như nhau. Đứa yêu thương nhiều, đứa yêu thương ít, đứa được nâng niu chiều chuộng, đứa bị ghét bỏ lạnh nhạt. Chắc chắn những đứa con dĩnh ngộ nhất, thông minh nhất sẽ được cha mẹ yêu thương hơn hết, vì cha mẹ nghĩ rằng những đứa con ấy sau này làm rạng rỡ gia đình, dòng họ và sẽ là trụ cột cho cha mẹ nương tựa. Tôi đã từng thấy nhiều cha mẹ dồn tình cảm yêu thương vào một đứa con nào đó. Miếng ăn ngon, quần áo đẹp, đồ chơi tốt đều dành ưu tiên cho nó. Cha mẹ có đi đây, đi đó cũng ưu tiên cho nó đi theo. Tìm hiểu ra mới biết những bậc cha mẹ này đã được một ông thầy tướng số nào đó đoan chắc những đứa con này mai sau sẽ thành đạt và giàu sang hơn tất cả anh chị em nó.

Đến lúc con cái đã trưởng thành, các bậc cha mẹ cũng thường có một đường lối đối xử đặc biệt với những đứa con nào hiện gặp thời, gặp thế, có chức, có quyền, ăn ra, làm nên, và thường miệt thị, khinh khi những người con kém cỏi, hay không gặp may mắn.

Và cái gọi là tình phụ tử hay mẫu tử thường biến thiên theo hoàn cảnh của con cái.

Hai người con, một được cha mẹ yêu thương vì có chức, có quyền, có tiền, có bạc; một bị cha mẹ rẻ rúng, xem thường vì địa vị xã hội không, mà sản nghiệp cũng không. Nay bỗng dưng có cảnh biển dâu đảo ngược, biến mây ra chó, biến trúc hóa rồng, thì trường hợp này tình yêu thương của các bậc cha mẹ thường có thay chiều đổi hướng.

Còn tình yêu thương của con cái đối với cha mẹ, thì hầu như lại biến thiên nghịch chiều với sự trưởng thành của con cái. Lúc còn trẻ thơ, còn sống trong vòng tay cha mẹ, thì tình yêu thương cha mẹ mạnh mẽ, khắng khít. Nhưng càng trưởng thành thì tình yêu thương ấy lại càng giảm thiểu, lơi lỏng. Và đến một lúc người con trưởng thành có gia đình riêng, có cuộc sống biệt lập, thì tình yêu thương đối với cha mẹ bị ý niệm nghĩa vụ lấn lướt. Người con trưởng thành chỉ còn nghĩ rằng cha mẹ sinh ra ta, chịu đựng bao nhiêu cực nhọc, vất vả cả thể xác lẫn tinh thần để nuôi nấng, dạy dỗ ta nên người, nay dù ở hoàn cảnh nào ta cũng có nghĩa vụ đền đáp công ơn trời biển ấy.

Sự đền đáp này cũng có nhiều hình thức, tùy theo nền văn hóa và tổ chức xã hội của từng nơi. Chẳng hạn như tại Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, thì cha mẹ già yếu được con cái đưa vào các viện dưỡng lão, cung cấp tiền bạc khi cha mẹ có nhu cầu. Thỉnh thoảng, năm thì mười họa, tới thăm viếng một lần, ngoài ra chỉ vấn an cha mẹ qua thư tín, điện thoại. Còn trong các xã hội Đông phương, như Việt Nam ta chẳng hạn, thì thông thường trước nay là con cái trực tiếp nuôi dưỡng cha mẹ. Khi cha mẹ khỏe mạnh thì món ngon, miếng ngọt bồi dưỡng, sớm tối thăm hỏi. Khi cha mẹ đau yếu thì thuốc thang chữa chạy v.v… Nhưng dù có như vậy đi nữa, thì những hành động ấy cũng không hẳn hoàn toàn bắt nguồn từ tình yêu thương cha mẹ, mà có thể chỉ là những hành động đền đáp rập khuôn, công thức, nặng tính tập quán. Ai cũng như ai, ai cũng làm vậy, nếu không làm vậy thì sợ người đời chê trách, lên án và sợ danh thơm, tiếng tốt bị bôi đen, xóa nhòa.

Trừ những trường hợp hoàn cảnh tài chánh không cho phép thì đành, còn thì trực tiếp nuôi dưỡng cha mẹ nói đây cũng chỉ có nghĩa là con cái giữ cha mẹ ở nhà, rồi bỏ tiền thuê người hầu hạ cha mẹ, chứ có mấy ai đích thân săn sóc cha mẹ già yếu, bệnh hoạn bao giờ. Đành rằng cuộc sống của chúng ta ngoài xã hội không cho phép chúng ta làm khác. Nhưng nếu may mắn gặp được một hoàn cảnh thuận tiện nào đó, khiến chúng ta có dịp đích thân phụng dưỡng cha mẹ già yêu, bệnh hoạn nan y kéo dài, thì chắc chắn chúng ta có thể trắc lượng được lòng yêu thương của chúng ta đối với các đấng sanh thành. Chúng ta sẽ thấy biết được chính xác, sẽ nhận diện được đầy đủ, hai năm rõ mười, cái mà ngôn từ đầu lưỡi xưa này vẫn gọi là lòng yêu thương cha mẹ.

Đúng vậy, chỉ có đích thân thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng này đối với cha mẹ, chúng ta mới có cơ hội điều tra về chính mình, về lòng yêu thương phụ mẫu nơi mình. Cứ việc điều tra cho sâu sắc, triệt để, vô tư, vì có ai đòi mình phải công bố kết quả điều tra đâu mà phải e ngoại, đắn đo. Sâu sắc và triệt để nghĩa là không bỏ qua một chi tiết nhỏ nhặt nào. Vô tư nghĩa là thấy biết lòng mình thế nào thì ghi nhận như vậy, không thêm không bớt, không bênh vực biện hộ.

Bản thân tôi may mắn có dịp tốt để làm chuyện này. Vốn là một sĩ quan phục vụ trong quân đội của chánh thể dân chủ, tự do miền Nam, tôi bị tập trung cải tạo từ tháng 6-1975. Sau bảy năm được thả về, tôi sống nhờ vợ con. Tôi còn mẹ già lúc ấy 79 tuổi. Để cho vợ con rảnh tay bươn chải kiếm sống trong một nền kinh tế đầy rẫy khó khăn vì lề lối quản trị kém cỏi, sai lầm của nhà cầm quyền cộng sản, tôi trực tiếp hầu hạ mẹ già trong thời gian mười năm. Những năm đầu, mẹ tôi còn khỏe thì công việc hầu hạ cũng đơn giản, dễ dàng thôi. Nhưng càng những năm về sau, sức khỏe mẹ tôi kém dần, thì công việc hầu hạ có phần phức tạp và vất vả hơn. Có vài anh bạn thân trước kia là đồng nghiệp, dồng liêu, nay là đồng cảnh, thường hay lui tới nhà thăm tôi. Thấy tôi hầu hạ mẹ, anh nào cũng khen: “Anh thật là người con có hiếu, có lòng yêu thương cha mẹ”. Tôi không dám nhận lời khen này. Tôi chỉ là người muốn đền đáp phần nào công ơn to lớn của cha mẹ thôi. Còn lòng yêu thương cha mẹ thì, như tôi đã rõ, là khi có, khi không. Có, khi tôi hầu hạ mẹ với tâm hiện tiền. Không, khi có tư tưởng xen vào.

Mới đây, tôi lại thấy báo chí đăng tại Hưng Yên, một người con gái đã đánh chết mẹ vì thói quen ăn dơ, ở bẩn của bà cụ.

Tôi cũng lại thấy bên Mỹ có quy chế bảo vệ người già chống lại sự ngược đãi của con cháu gọi là”Eldery abuse statute”.

Trong Phật học, có nói đến A Xà Thế hạ ngục vua cha là Tần Bà Xa La cho đến chết để cướp ngôi báu. Mẹ của A Xà Thế là Vi Đề Hy lén mang thực phẩm đến ngục thất tiếp tế cho chồng, A Xà Thế biết được bèn hạ ngục luôn cả mẹ.

Thì ra trên thế gian này xưa nay tình yêu thương đúng nghĩa đối với cha mẹ hầu như vắng bóng.

Trong lúc sắp kết thúc đoạn văn này, thì một sự việc xảy ra ngay trong xóm, phù hợp với đề tài đang viết, nên tôi xin ghi vài dòng:

Số là trong cư xá nơi gia đình tôi đang cư ngụ, có một bà nhà nghèo, cơm chẳng đủ ăn, áo chẳng đủ mặc. Đến lúc bị lâm bệnh trầm kha kéo dài, thì thuốc không đủ uống. Bà có hai con trai, người con thứ hầu như chẳng nghĩ đến đáp đền nghĩa mẹ, chẳng chu cấp tiền bạc để mẹ ăn uống, thuốc thang, thậm chí cũng chẳng tới lui thăm viếng. Nhưng lúc mẹ chết thì chính anh ta lại chủ trương làm ma cho lớn. Thế là anh ta bán đi các vật dụng trong nhà, mượn thêm tiền của bà con, quyến thuộc, tổ chức tang lễ thật trọng thể để được, như anh ta nói, mát mặt với thiên hạ, hãnh diện với bà con khu phố. Rõ ràng anh là này chẳng vì yêu thương mẹ mà hành động như vậy. Anh chỉ muốn mượn cơ hội để mưu cầu danh thơm, tiếng tốt cho bản thân mà thôi.

Còn tình huynh đệ cũng vậy. Cổ kim đông tây, người ta đã chứng kiến không biết bao nhiêu cảnh huynh đệ tương tàn hay nồi da xáo thịt do tranh chấp danh vị, quyền lợi ở quy mô lớn cũng như nhỏ, giữa những người anh em ruột thịt.

Trong lịch sử chẳng thiếu gì cảnh anh em trong hoàn tộc chém giết nhau để tranh dành ngôi báu. Học Phật chắc chúng ta cũng thường được nghe nói tới A Dục Vương (Asoka 274-236 trước Tây lịch), vì ngài là người có công lớn trong việc hoằng dương Phật pháp. Ngài đã giết 99 trong số 101 người an hem của ngài trong cuộc tranh dành quyền lực chốn hoàng cung.

Trên thế gian này, thường những người kém may mắn, gặp cảnh bần hàn cơ cực, năng lui tới anh chị em để nhờ vả, quấy quả, mượn vay thì sớm muộn cũng bị anh chị em chán ghét, xa lánh. Và trong anh em, người giàu sang thường đưa ra lập thuyết “kiến giả nhất phận” để từ chối, hoặc tối thiểu hóa sự giúp đỡ đối với những người khác.

Thảng hoặc có sự giúp đỡ nào đó giữa những người cùng trong huyết thống thì cũng không phải là một sự giúp đỡ mà Phật học gọi là Ba la mật, nghĩa là giúp đỡ mà như không giúp đỡ, một sự giúp đỡ hoàn toàn vô tư, bắt nguốn từ lòng yêu thương chân chính mà ra.

Tóm lại tình yêu thương không thể đi đôi với tư tưởng. Chúng vốn bất khả tương dung. Có mặt của tư tưởng là tình yêu thương đội nón đi ra, hay nói khác đi thình yêu thương chỉ xuất hiện khi tư tưởng ngưng dứt. Tình yêu thương nằm ở ngoài phạm vi của tư tưởng, vì bản chấtcủa tư tưởng là vị kỷ, vị ngã. Như hai ví dụ nói ở phần trên, bạn nào có yêu thương người thân đang gặp khó khăn kia, mà bạn yêu thương bạn. Bạn cũng chẳng yêu thương người khách lạ sang trọng kia mà bạn yêu thương chính mình. Khi còn tư tưởng thì tình yêu chân chính không thể ló dạng. Cái mà người đời gọi là tình yêu thương chẳng qua cũng chỉ là một loại bình phong, một loại chiêu bài để che dấu, ngụy trang những theo đuổi vị ngã mà thôi.

Nói như vậy, ta lại có cảm tưởng rằng tình yêu thương chân chính đồng nghĩa với lòng vị tha. Tình yêu thương chân chính dĩ nhiên đối nghịch với những toan tính vị kỷ, hay những theo đuổi vị ngã, nhưng nó cũng không đồng nghĩa với lòng vị tha. Tình yêu thương chân chính chẳng “vị” cái gì cả. Nó là nó. Nó hồn nhiên và trong vắt, trong veo, vì không bị vẩn đục bởi một sự cân nhắc, một sự tính toán, so đo xa gần, hơn thiệt. Tình yêu thương chân chính được ban rải hồn nhiên và đồng đều, không phân biệt đối tượng, y như những loài hoa quý ban rải hương sắc của chúng.

Phải có cái mà ngài J. Krishnamurti gọi là cuộc chuyển hóa thật sự của cơ cấu tâm lý con người(3), hay còn gọi là cuộc cách mạng nội tâm triệt để(4) hầu dành lại sự tự do tuyệt đối, hoàn toàn thoát khỏi sự chi phối, ràng buộc của kiến thức và kinh nghiệm, tức tư tưởng, thì bấy giờ một chân trời mới, chân trời của tình yêu thương chân chính, bao la mới mở rộng chan hòa. Cuộc chuyển hóa ấy, cuộc cách mạng ấy bắt đầu và chấm dứt bằng lối sống phi thời gian, phi không gian. Ngoài ra, chẳng làm gì có tình yêu thương. Có đề cập đến tình yêu thương thì cũng chỉ làm hoen ố tình thương mà thôi. Đúng vậy, khi có mặt của tư tưởng thì yêu thương chỉ là một tên gọi khác của lòng tham lam,vị kỷ, thâm căn cố đế nơi con người trên thế gian này.

Bài mười một:
HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH

Hạnh phúc gia đình hay còn gọi là hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc vợ chồng. Gia đình ở đây được dùng theo nghĩa hẹp. Lấy vợ, lấy chồng thường được gọi là lập gia đình và hạnh phúc gia đình là cuộc sống hài hòa, an vui, nồng thắm, kết quả của sự gặp gỡ, sự giao cảm trực tiếp và hồn nhiên của hai tâm hồn hai người phối ngẫu.

Hạnh phúc gia đình là một vấn đề lớn, một vấn đề của nhân loại. Đến tuổi trưởng thành, ai chẳng lập gia đình và một khi đã lập gia đình, ai lại chẳng muốn có gia đình hạnh phúc. Vì một vấn đề lớn, nên người ta đã bỏ ra nhiều thời gian và công của, từ cổ chí kim, để suy nghĩ, điều tra phân tích, tìm hiểu hòng khám phá ra một lời giải đáp thỏa đáng cho câu hỏi: “Làm thế nào để có hạnh phúc gia đình?” Nhưng cho đến nay người ta cũng chưa đạt đến kết quả mong muốn, nghĩa là câu hỏi vẫn còn đó, hạnh phúc gia đình vẫn còn là một thứ trái hiếm mà nhân loại thiết tha, khao khát kiếm tìm.

Có lập luận chủ trương hôn nhân là khế ước. Nếu hai bên cùng thấy rằng những điều kiện của bên kia thỏa mãn được thì mình ký với nhau một khế ước sống chung tức hôn thú.

Quan niệm hôn nhân là khế ước này hiện nay rất phổ biến. Nhưng khế ước là gì, nếu không phải là sự gặp gỡ giữa hai nhóm điều kiện. Sự gặp gỡ này được mệnh danh là tình yêu thương đôi lứa, là hạnh phúc gia đình như bài trên đã nói. Tình yêu thương đôi lứa hay hạnh phúc gia đình như thế hoàn toàn tùy thuộc vào sự gặp gỡ chủ quan của số lượng ít hay nhiều điều kiện và gặp gỡ ở mức cao hay thấp của những điều kiện ấy. Nếu hai vợ chồng thỏa mãn nhau được tối đa điều kiện như ngoại hình, sức khỏe, tuổi tác, tài năng, bằng cấp, địa vị xã hội, khả năng kiếm tiền, tính tình, gia thế, gia phong và chuyện kín đáo chốn phòng the v.v… Bên này muốn gì thì bên kia có nấy, và có ở một mức độ cao, thì cặp vợ chồng này cho rằng họ có hạnh phúc gia đình.

Nhưng khi hai bên tìm hiểu những điều kiện của nhau để lập ước thì đâu có dễ gì mà tìm hiểu cho đến ngọn nguồn, lạch sông, nên chỉ có những điều kiện tưởng là không thì lại có, tưởng là có thì lại không, tưởng nhiều thì lại ít và ngược lại làm cho hạnh phúc gia đình bị ảnh hưởng nặng nề. Có những cặp vợ chồng bề ngoài dúng là xứng đôi vừa lứa, gái sắc trai tài. Gia đình đôi bên thì môn đương hộ đối. Những tưởng hạnh phúc tràn trề. Nhưng ít lâu sau đã thấy họ bỏ nhau, đường anh anh đi, đường nàng nàng bước.

Tôi có một người bạn cưới cô vợ đầu. Cuộc tình duyên không hiểu vì sao vừa hợp đã tan. Sau anh cưới cô vợ thứ hai. Cô vợ này cũng bỏ anh ra đi không ngoái cổ lại, chỉ sau một tuần chung sống. Đứng ngoài mà xét thì anh với cả hai cô vợ đều là cặp vợ chồng đẹp đôi. Cả ba đều thuộc hàng danh gia vọng tộc ở địa phương, không hiểu vì lẽ gì mà anh không có được hạnh phúc gia đình. Gặp lúc đất nước chia đôi, anh ở lại miền Bắc, còn tôi vào Nam. Đến lúc đất nước thống nhất tôi hỏi thăm tin anh mới biết anh có người vợ thứ ba, nhưng bà vợ này cũng lại bỏ anh. Thế là từ đó anh ở vậy đến già, không vợ, không con. Một người trai khỏe mạnh, đẹp trai, có học, tính tình đôn hậu, con nhà dòng dõi, giàu có như anh xét ra có nhiều điều kiện hấp dẫn đối với nữ giới, nhưng nghe đồn anh chỉ có một điều kiện xấu, đó là sự bất bình thường về mặt sinh lý, một điều kiện mà người đối ước không thể phát hiện được khi lập ước, nên không người khác phái nào, sau khi tìm hiểu, dò xét đã quyết định kết tóc ở đời với anh, lại tìm hạnh phúc bên anh.

Lại nữa, tính tình con người là một điều kiện thường được ngụy trang khéo léo, khó mà tìm hiểu, để có được một kết luận chính xác. Khi chưa lấy nhau thì thường bên này cố tỏ cho bên kia biết là tính tình của mình thuộc loại mười phân vẹn mười. Nó như một miếng mồi câu tỏa mùi thơm ngát để lôi kéo con cá say mồi. Và chỉ khi cá đã nuốt mồi rồi mới thấy trong miếng mồi thơm ngon ấy đã có lưỡi câu găm sẵn, nhưng đã quá muộn. Chúng sống với nhau một thời gian do sự cọ sát của cuộc sống, của hoàn cảnh mới phát hiện được tính tình thực sự của người phối ngẫu và từ đó hạnh phúc gia đình mới dần dần phai lạt.

Hơn thế nữa, lúc tìm hiểu nhau, người ta lại thường thiên trọng về một điều kiện nào đó mà coi nhẹ các điều kiện khác. Chẳng hạn nếu bên trai hiếu sắc mà gặp bên gái bậc nghiêng nước nghiêng thành, hay một bên tham của mà bên kia tiền lắm bạc nhiều; hoặc một bên tham danh mà gặp bên kia thuộc gia đình, dòng họ thế phiệt trăm anh, thì việc lập ước hẳn sẽ mau mắn, chóng vánh, bất chấp các điều kiện khác có ra sao thì ra. Đến khi thành vợ, thành chồng họ mới thấy những điều kiện trước kia đã coi nhẹ, nay lại có một vai trò quan trong trong cuộc sống chung và chính chúng đang soi mòn dần dần hạnh phúc gia đình.

Giả thử gặp một trường hợp lý tưởng, hai bên đều gặp được tối đa những điều kiện cần thiết cho một cuộc hôn nhân tốt đẹp vẹn toàn, thì ngay trong trường hợp này, cũng không phải là họ sẽ có hạnh phúc gia đình bền vững. Vì những điều kiện bị chi phối bởi luật vô thường nghĩa là nay thế này, mai thế khác, nay còn, mai mất. Trong sự chuyển biến này có thể có những điều kiện biến chuyển theo hướng tốt lên, như tài sản chẳng hạn, lúc mới lấy nhau tài sản chỉ có một, sau làm ăn ra có, tài sản có thể là hai ba hoặc nhiều hơn nữa, bồi đắp, củng cố hạnh phúc gia đình. Gặp trường hợp trái lại thì hạnh phúc gia đình phải bị ảnh hưởng. Người Anh có câu ngạn gnữ: “When poverty comes in at the door, love flies out at the window”. Nghĩa là khi sự nghèo khó vào nhà thì tình yêu đội nón ra đi. Nhưng có những điều kiện luôn luôn biến chuyển theo chiều hướng xấu như nhan sắc, sức khỏe, ấy chưa kể đến những đột biến xã hội làm cho địa vị, danh vọng, tài sản của một bên lâm vào tình trạng đảo ngược, tiêu vong, thì hạnh phúc gia đình cũng theo đó mà đi vào chỗ ngặt nghèo, chao đảo, cạn vơi, tan vỡ.

Ở đây, quan niệm hôn nhân là khế ước lại có một hậu quả rõ rệt. Vì đã là khế ước thì đôi bên chỉ ký dựa trên một số điều kiện nào đó. Nay những điều kiện là cơ sở cho khế ước hoặc không còn nữa, hoặc đã biến chuyển đến chỗ bất lời cho một bên, thì hay bên đối ước hay một bên đối ước sẽ xử dụng quyền bãi ước, nghĩa là người ta sẽ ra tòa ly dị, để rồi mỗi người mỗi ngã, đường ai nấy đi, hạnh phúc gia đình hoàn toàn tan vỡ. Nên pháp lý của các quốc gia chấp nhận quan niệm hôn nhân là khế ước luôn luôn tôn trọng ý chỉ của người lập ước. Tòa án không bao giờ can thiệp để tìm cách ảnh hưởng đến ý chí của bất cứ bên nào, hoặc của cả hai bên.

Về phương diện đạo đức thì lập luận này cho rằng khi cuộc sống chung không còn hạnh phúc, gia đình đã là một địa ngục trần gian thì chẳng nên duy trì, níu kéo gắng gượng làm gì cho khổ nhau. Hạnh phúc gia đình nằm ở chỗ “hay thì ở, dở thì xéo”. Nhưng về mặt gia đình, xã hội thì quan niệm này không tránh được những hậu quả tai hại. Trong một gia đình mà đường cha cha đi, đường mẹ mẹ đi, thì con cái bơ vơ, trôi dạt rất đáng thương, rất thiệt thòi vì không được sống trong không khí gia đình ấm áp tối cần thiết cho sự tăng trưởng bình thường của một con người về mặt tình cảm vào lúc thiếu thời. Sau vì không được trông coi, dạy dỗ đúng mức của cha mẹ, chúng dễ trở thành những phần tử hư hỏng, tác hại cho xã hội, cho tập thể. Chắc trong chúng ta, nhiều người đã có dịp chứng kiến cảnh khổ đau của một đàn con thiếu tình thương cha mẹ, thiếu sự săn sóc của gia đình.

Còn hai người phối ngẫu đã quyết định dứt tình kia, thì mạnh ai nấy tìm một tổ ấm mới mà họ nghĩ rằng họ sẽ có hạnh phúc ở trong gia đình tân lập. Nhưng rồi sớm muộn họ lại nhận ra rằng họ cũng chẳng có hạnh phúc với người phối ngẫu đến sau, mặc dầu họ cũng có điều tra, tìm hiểu những điều kiện thuận lợi nơi người phối ngẫu mới này. Cứ như thế họ sục sạo kiếm tìm cho đến lúc gối mỏi, chân mòn, thấy mình không còn điều kiện để tìm kiếm nữa mới đành dừng chân.

Lập luận thứ hai chủ trương hôn nhân là định chế. Theo lập luận này thì sau khi tìm hiểu; nếu hai bên quyết định đi đến hôn nhân, thì kể từ ngày thành hôn, hai bên có trách nhiệm duy trì cuộc sống chúng cho đến bách niên giai lão. Liên hệ phu phụ không phải là mối liên hệ khế ước mà là mối liên hệ thiêng liêng, đạo đức, vì hôn nhân là sự sắp đặt, sự tác thành của bề trên, của đại gia đình dòng họ đôi bên. Đã nên vợ, nên chồng thì phải kết tóc sống chung cho đến mãn kiếp, trọn đời. Ai bỏ vợ, bỏ chồng thì bị dư luận chê trách, lên án. Thanh danh gia đình cũng bị ảnh hưởng, và luật pháp cũng không tán trợ chuyện này. Một cặp vợ chồng đưa nhau ra trước cửa công để xin ly dị thì thường được tòa triệu đến hòa giải đôi ba lần để kéo dài vụ án với hy vọng là thời gian sẽ là tác nhân hàn gắn có hiệu quả. Có khi chỉ vì một chuyện nhỏ trái ý, phật lòng mà nổi nóng, xô xát, vội giận mất khôn, nói năng và hành động sai lầm. Thời gian sau, vì áp lực của gia đình, dòng họ, vì sự khuyên giải thiệt hơn của bằng hữu, thân thuộc, mới nguôi giận, tỉnh thức và nhận ra hậu quả trầm trọng cả về đạo đức lẫn cuộc sống, nên rút lại ý định ly dị thiếu sáng suốt, không chính chắn hôm nào.

Lập luận này cho rằng gia đình là nền tảng của xã hội. Có ổn định được gia đình thì nhiên hậu mới ổn định được xã hội. Gia đình có ổn định thì mới có cơ thịnh vượng, mới tạo dựng được cuộc sống gương mẫu tốt đẹp cho con cái trong hiện tại và tương lai. Xã hội có ổn định thì mới có cơ phát triển tiến bộ.

Nhưng khuyết điểm của lập luận này là ở chỗ đã đồng hóa sự sống chung với hạnh phúc gia đình. Vì biết rằng chẳng dễ gì bỏ nhau được trước sức cản của gia đình, của dư luận, của luật pháp nên vợ chồng phải bằng mọi giá tìm ra được một đường lối để giữ lấy hòa khí trong gia đình, để bảo vệ cuộc sống chung. Nếu bản chất có hẹp hòi, cố chấp, thì cũng phải gắng học thói khoan dung, dễ dãi, chín bỏ làm mười, sẵn sàng lui lún, tương nhượng, để liên hệ chồng vợ tránh được những căng thẳng đáng tiếc, chồng giận thì vợ làm lành và ngược lại. Nghĩa là lập luận này đẩy hai người phối ngẫu vào đường cùng, ngõ cụt và tin rằng với sự khôn ngoan biết suy hơn, tính thiệt của con người, vợ chồng sẽ tự tìm ra lối thoát nào đó để duy trì cho được cuộc sống chung và dán cho nó cái nhãn danh hiệu hạnh phúc gia đình. 

Lập luận này có tránh được hậu quả tai hại về hạnh phúc cá nhân, về gia đình, về xã hội nhưng nó lại mang tính áp đặt, cưỡng bức. Đôi bên cứ phải sống chung với nhau bằng mọi giá, mặc dù không có sự gặp gỡ của hai bên tâm hồn. Có chẳng chỉ là sự gặp gỡ của hai thể xác những khi chung chăn chung gối. Ngoài những giây phút ân ái ngắn ngủi này thì hai tân hồn luôn luôn xung đột, kình chống. Hai thể xác tuy là đồng tịch, đồng sàng nhưng tâm tư vẫn xa cách nhau một trời, một vực. Có sống với nhau đến đầu bạc, răng long thì cũng chỉ là gắng gượng, miễn cưỡng, chứ nào có hạnh phúc gì đâu.

Lập luận thứ ba thịnh hành ở các xã hội Đông phương, lại quan niệm là đành rằng hạnh phúc gia đình phải tuy thuộc vào một số điều kiện, nhưng điều kiện tối hậu và trội yếu là phải hạp mạng của đôi bên. Thí dụ: người con trai mạng Mộc, muốn có hạnh phúc gia đình thì phải tìm lấy được người con gái cũng mạng Mộc như mình, tốt hơn thì là người con gái mạng Thủy, cùng lắm là người mạng Hỏa, chứ chớ lấy người mạng Kim, vì Kim khắc Mộc. Người tuổi Bính thì chớ lấy người tuổi Canh, vì Bính thuộc Hỏa, Canh thuộc Kim, Hỏa khắc Kim. Người tuổi Kỷ chớ lấy người tuổi Quý, vì Kỷ thuộc Thổ, Quý thuộc Thủy, Thủy Thổ tương khắc v.v…

Vì vậy các bậc cha mẹ mỗi khi dựng vợ gả chồng cho con cái, hay các thanh niên nam nữ sau khi đã tìm hiểu nhau, lại thường tìm đến các thầy tướng số để nhờ coi tuổi hai bên xem bản mạng có hạp nhau không. Các thầy tướng số căn cứ vào ngày tháng năm sinh của đôi bên và dựa vào thuyết ngũ hành sinh khắc, chế hóa để xem xét và đưa ra lời khuyến cáo nên hay không nên tiến tới hôn nhân. Nhưng trong lập luận thứ ba này thì hạnh phúc của hai vợ chồng có chân mạng hạp nhau cũng chỉ có nghĩa là hai người sẽ ăn đời ở kiếp với nhau, sinh con đẻ cái, ăn ra làm nên, không có cảnh giữa đường dứt gánh, duyên tình dang dỡ, gia đình đổ vỡ thế thôi, chứ không có nghĩa là hễ hạp mạng thì hai vợ chồng sẽ ăn ở với nhau trong hạnh phúc tròn đầy.

Lập luận thứ hai và thứ ba đã đồng hóa sự sống chung với hạnh phúc gia đình. Nhưng ở đời thiếu gì cảnh sống chung dẫy đầy mâu thuẫn, xung khắc. Còn lập lụân thứ nhất thì hạnh phúc gia đình tùy thuộc vào mức độ gặp gỡ của những điều kiện trong khế ước hôn nhân, nghĩa là nếu những điều kiện ấy biến đổi, thăng trầm, còn mất thì hạnh phúc gia đình cũng theo đó mà sa sút, đầy vơi, mất còn.

Bài viết này không thiên trọng về một lập luận nào, vì lập luận nào cũng có phần ưu, phần khuyết của nó, và không lập luận nào có thể giúp cho con người tìm được hạnh phúc gia đình đích thực. Bài viết lại không chú trọng đến giai đoạn tiền hôn thú. Chuyện tìm hiểu, dò xét, cân nhắc dĩ nhiên phải có, là chuyện riêng của đôi bên và của hai gia đình. Ở đây chỉ đề cập đến giai đoạn sống chung, làm thế nào để vợ chồng luôn luôn chung sống trong yêu thương tròn đầy. Dù ở hoàn cảnh nào, điều kiện nào, khi trẻ đẹp cũng như lúc già xấu, khi hưng thịnh cũng như lúc suy vong, hạnh phúc gia đình không vì một lý do nào mà bị xoi mòn, suy giảm, tan biến. Cuộc sống chung luôn luôn hài hòa, an vui, nồng thắm. Ở đây cũng không đề cập đến những cặp vợ chồng bất bình thường, nghĩa là một bên hoặc cả hai ở vào mọt trạng thái quá quát không thể chấp nhận được, như một bên có khuyết tật sinh lý (trường hợp anh bạn nói trên), hay một bên ăn chả, một bên ăn nem hay một bên đam mê các thú vui ích kỷ (rượu chè, trăng hoa), hay chạy theo lý tưởng danh lợi một cách thái quá, đưa đến chỗ bỏ bê gia đình, thiếu sót nghĩa vụ đối với người phối ngẫu.

Tôi cũng từng thấy một ông chồng tuy không bê tha chè rượu, không ong bướm lăng nhăng, nhưng lại ham mê khoa bảng, một ham mê chẳng thể gọi là tội lỗi, xấu xa, nhưng chết nỗi ông chồng này đã dành toàn bộ sức lực, thời gian cho sách đèn, chẳng lưu tâm đến gia đình. Rốt cuộc người vợ đành phải bỏ ông, bước đi bước nữa, để mặc cho ông theo đuổi công danh.

Ở đây chỉ đề cập đến những cặp vợ chồng bình thường, bình thường về mọi mặt, không có mặt nào thái quá, cũng không có mặt nào bất cập. Với những cặp vợ chồng bình thường này thì làm thế nào để có được hạnh phúc gia đình?

Cho dù đôi bên có những điều kiện lý tưởng để hấp dẫn nhau, cho dù hôn nhân có được các bậc tướng số uyên bác mách bảo, thì cũng không vì thế mà gia đình có được hạnh phúc tròn đầy, lại hoàn toàn đồng ý với nhau về mọi vấn đề to nhỏ trong cuộc sống. Thôi thì ăn uống, may mặc, phục sức, giải trí, nuôi dạy con cái v.v… nói chung là trong mọi sinh hoạt của cuộc sống, thường thường mỗi người đều có nhu cầu riêng, kinh nghiệm riêng, ý thích riêng, quan niệm riêng, đường lối hành động riêng, do đó ít hay nhiều thường phát sinh những va chạm ý kiến. Trong những va chạm ấy chỉ cần một bên lỡ lời, nặng tiếng và bên kia khởi niệm tự ái là dẫn đến xô xát, căng thẳng.

Và mỗi lần có va chạm, xô xát thì bên nào cũng đưa ra sự kiện ấy vào tồn trữ trong ký ức, y như một chuyên viên điện toán đưa một dữ kiện vào bộ nhớ của máy. Cứ như thế, các dữ kiện về người phối ngẫu dần dần tích lũy, mỗi ngày mỗi nhiều, nơi tâm tư cả hai bên. Mỗi lần thấy nhau là những dữ kiện xấu về nhau lại nhanh như chớp xuất hiện, xen vào làm cho mối tương giao giữa hai tâm hồn mất hẳn tính trực tiếp, vẻ hồn nhiên. Các dữ kiện xấu kia bóp méo, xuyên tạc, bôi vẽ để người này không thấy được người kia như họ đang là. Vợ gặp chồng, chẳng thấy được chồng thực sự ra sao vào thời điểm ấy, mà lại chỉ thấy chồng qua hình ảnh xấu xa đang lưu giữ trong ký ức, nghĩa là chỉ thấy một gã đàn ông cố chấp, độc đoán, ích kỷ, trịch thượng, tàn nhẫn v.v… và chồng gặp vợ cũng vậy, cũng nhìn vợ qua những hình ảnh xấu xa đó mà anh đã tồn trữ suốt trong quá trình sống chung.

Những dữ kiện xấu về nhau cứ tiếp tục tích lũy theo thời gian, lâu dần tâm lý hai người như hai ly nước đầy, chỉ cần thêm một giọt nữa là ly nước tràn trào, hoặc như một con lạc đà chở nặng, chỉ cần thêm một cọng rơm là con vật gẫy lưng, sụm gối.

Nếu quan sát một cuộc cãi nhau giữa một cặp vợ chồng đang có chuyện bất hòa, ta thường thấy lúc đầu cuộc cãi vã chỉ tập trung vào một nguyên nhân trực tiếp, đơn giản nào đó, nhưng rồi nó dần dần lan rộng sang các vấn đề khác. Đáng lẽ cuộc cãi vã ngắn gọn, thu gom vào một điểm, nhưng vì những mâu thuẫn, xung đột trong quá khứ tồn trữ trong ký ức mỗi bên xô đến, tham gia vào, đóng góp vào, làm cho cuộc cãi vã vượt khỏi giới hạn ban đầu, và trở nên mỗi lúc trầm trọng, phức tạp. Bên nào cũng truy tìm về quá khứ, moi ra những dữ kiện chứa chấp trong óc não để được thể oán trách, than van để chứng minh phần phải về mình và phần trái về người, làm cho tương quan ngày càng căng thẳng. Căng quá tất phải đứt thôi. Nếu không đứt thì hạnh phúc gia đình cũng đã bị đẩy xa, xa dần, để đến một lúc nào đó dứt khoát vượt khỏi tầm tay của đôi bên.

Những dữ kiện, những hình ảnh tồn trữ trong tế bào óc não, lưu chấp trong ký ức chính là tư tưởng. Tư tưởng thường không đi đôi với hạnh phúc. Có tư tưởng xem vào là hạnh phúc sứt mẻ, suy giảm, tiêu vong. Đúng vậy, nếu bạn không lưu chấp cái hình ảnh trẻ đẹp của người phối ngẫu lúc đầu còn xanh, tuổi còn ít, thì làm sao bây giờ bạn biết người ấy già xấu, nhan sắc tàn phai để từ đó khởi lên niềm chán chường, rẻ rúng. Nếu bạn không cất giữ trong tâm bạn những dữ kiện về sự giàu có, sang trọng thuở nào của người phối ngẫu như tiền bạc rủng rỉnh, chức quyền đầy người, cửa cao nhà rộng, thì làm sao bây giờ bạn biết người ấy đang ở trong hoàn cảnh suy vong, kém cỏi để mà buồn rầu về lẽ hưng phế đưa đến khinh khi, miệt thị người bạn đời chẳng may gặp cảnh hẩm hiu. Nếu bạn không tồn trữ trong tế bào óc não tất cả những hình ảnh xấu xa về người phối ngẫu trong những lần va chạm, xung đột mà cuộc sống chung thông thường không mấy ai tránh khỏi, thì làm gì bạn lại có những thành kiến, thiên kiến về người phối ngẫu, để rồi mỗi khi thấy nhau thì những thành kiến, thiên kiến ấy lại xô đến, chụp lên và che khuất thực tướng của người phối ngẫu, riết rồi chẳng nhìn thấy nhau mà chỉ còn nhìn thấy cái giả tướng do thiên kiến, thành kiến tạo nên, khiến hai tâm hồn cứ bị ngăn cách, ảnh hưởng nặng nề đến hạnh phúc gia đình.

Cái căn bệnh mất hạnh phúc gia đình của chúng ta là ở chỗ đó. Biết được căn bệnh rồi thì việc chữa trị coi như đã đạt được năm mươi phần trăm như ngạn ngữ của người Anh nói: “To know the disease is half the cure”. Năm mươi phần trăm còn lại là vấn đề ý chí, có tinh tấn chữa trị hay không, thế thôi.

Nếu hai vợ chồng ăn ở với nhau mà ai cũng có tâm vô trụ, nghĩa là “Sự lai nhi tâm tùy hiện, sự khứ nhi tâm tùy không”, việc đến thì tâm có, việc đi thì tâm không, thì vấn đề hạnh phúc gia đình đâu có còn phải đặt ra.

Những gì thuộc quá khứ hãy trả lại cho quá khứ hết. Những hành động nghịch lý, thiếu nghĩa, thiếu tình của người phối ngẫu bữa nào đã đi vào quá khứ rồi không bao giờ trở lại nữa, nó còn, là chỉ tại ta níu kéo, gìn giữ nó thôi. Những lời nói xấu xa, xúc chạm của người phối ngẫu vừa nói ra khỏi miệng là đã đi mất dạng rồi, đố ai kéo giữ lại nổi, chỉ tại ta cứ “miếng ngon nhớ lâu, lời đau nhớ đời”.

Nói khác đi, nếu ta còn bị quá khứ chi phối, tức thời gian tâm lý chi phối thì tư tưởng vẫn còn cơ hội thi hành cái ngón nghề của nó là lưu chấp, so sánh, phân tích, phê bình, lên án v.v… thì hạnh phúc gia đình còn bị ảnh hưởng nặng nề.

Nếu nay hai bên đều sống phi thời gian, nghĩa là sống trọn vẹn với hiện tiền, với tâm vô trụ thì tư tưởng tự nhiên ngưng dứt và những hình ảnh xấu xa về những việc làm không đẹp, những thái độ thất thố, những cử chỉ thất thường, những lời nói chói tai, xúc phạm của người phối ngẫu ngày nào, đâu có thể trở lại, chen vào mối tương quan chồng vợ để đôi bên không thấy được cái thực tướng hoàn toàn mới mẻ của nhau. Sáng đi làm, chiều trở về tổ ấm gia đình, vợ chồng lại gặp nhau, thấy nhau hoàn toàn mới mẻ như hai người xa lạ chưa từng gặp nhau bao giờ, thì chắc chắn gia đình chúng ta sẽ ngập tràn hạnh phúc, một lại hạnh phúc chân thật, tròn đầy, bền vững, một loại hạnh phúc mà người thế gian này không ai có được, kể những người giàu sang nhất, quyền lực nhất và tài năng nhất, nếu họ vẫn còn lẩn quẩn trong vòng chi phối của không gian, thời gian tức của tư tưởng.

Bài mười hai:
THẾ GIỚI HÒA BÌNH

Thế giới chúng ta là thế giới nhiễu nhương, điên đão, đầy dẫy mâu thuẫn và tranh chấp. Chẳng phải bây giờ mới vậy, mà đã biết bao nhiêu thiên niên kỷ rồi vẫn vậy. Dù người ta có đua nhau nói đến hòa bình, người ta mong mỏi và ca tụng hòa bình, người ta triệu tập các hòa hội và ký kết các hòa ước, rồi người ta đặt giải thưởng hòa bình, nhưng chẳng bao giờ nhân loại lại có được nột nền hòa bình thật sự. Lúc nào trên trái đất này cũng có chiến tranh, không lớn thì nhỏ, không thế giới, cũng địa phương, không nóng cũng lạnh. Cả những giai đoạn mà đao kiếm không tuốt trần, súng ống không nhả đạn cũng không phải là thế giới có được hòa bình. Người ta đang âm thầm và ráo riết chuẩn bị chiến tranh. Người ta bỏ công của nghiên cứu và sản xuất các loại binh khí, chiến cụ ngày một tối tân, hiện đại hơn, giết người hàng loạt. Và ngày nay số binh khí, chiến cụ tích lũy đã lên đến mức độ thật hãi hùng. Không cần phải xử dụng toàn bộ số binh khí, chiến cụ ấy, mà chỉ một phần nhỏ thôi cũng đã đủ để tận diệt mọi sanh linh, biến các công trình xây dựng vô giá và nền văn minh sáng chói của nhân loại thành tro bụi, biến hành tinh xinh đẹp và thân yêu của chúng ta thành một thiên thể chết. Vì vậy mà thế chiến thứ ba chưa xảy ra để các kho vũ khí độc hại khủng khiếp kia có dịp mở cửa mà thiêu đốt cả kẻ thắng lẫn người bại, nhưng nhân loại thì đã và đang phải sống trong một nền hòa bình đầy lo âu và nơm nớp sợ hãi.

Ấy thế mà con người vẫn biện minh cho việc làm của mình bằng những lời lẽ hoa mỹ. Họ nói rằng muốn có hòa bình, phải chuẩn bị chiến tranh hay vũ khí độc hại có sản xuất ra ngày một nhiều thật, nhưng cũng mong không có dịp phải dùng tới.

Không những thế, một số nước có nền công nghiệp cao, ngoài việc sản xuất và tồn trữ vũ khí giết người hàng loạt như hạt nhân, hóa học, vi trùng với lý do phòng thủ, còn sản xuất các loại vũ khí thích hợp để xuất khẩu như xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ vậy, hòng kiếm những món lợi to lớn, đôi khi to lớn hơn cả bất cứ món lợi nào. 

Ngoài việc bán ra như thế, họ còn dùng vũ khí đã sản xuất để chi viện các quốc gia, các tổ chức, các đảng phái, phe nhóm, các phong trào ở khắp nơi để kéo bè, kéo cánh hầu bành trướng thế lực.

Muốn thu được lợi nhuận ngày một nhiều, muốn thế lực ngày được nâng cao, lan rộng, họ đã không ngần ngại tạo mâu thuẫn hoặc gây chia rẽ để thừa nước đục thả câu hay đóng vai “ngư ông đắc lợi”. Sống chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi.

Một khi nước mình, phe mình, khối mình bành trướng thì cũng kích thích nước khác, phe khác, khối khác bành trướng theo và hậu quả tất nhiên là tình hình căng thẳng cứ leo thang. Tranh chấp cứ ngấm ngầm, âm ỷ. Chiến tranh cứ tiềm ẩn, đợi chờ.

Nói đến chiến tranh, là người, ai chẳng chán ghét, ghê gớm. Nhưng vì tính tham lam, vị kỷ đã làm mất đi sự sáng suốt, lòng nhân đạo vốn có, nên con người hiện ra như một sinh vật khát máu và độc ác nhất. Thôi thì tôn giáo, sắc tộc, màu da, lãnh thổ, tài nguyên thiên nhiên, thị trường, ý thức hệ v.v… Cái gì cũng có thể là nguyên nhân gây chiến để tàn sát lẫn nhau.

Hầu như con người chẳng rút được những kinh nghiệm khổ đau nào từ chiến tranh. Trong quá khứ lịch sử, con ngườiđã trải qua không biết bao nhiêu là cuộc chiến tranh rồi, đã từng chứng kiến cảnh chết chóc, thương tật, tàn phá, đổ vỡ và cũng là nận nhân trực tỉếp của những thảm cảnh đó. Những tưởng rằng “bận trước đau, bận sau vái”. Nhưng không, hết keo này, họ lại sẵn sàng bày keo khác. Thế chiến thứ nhất có số tử vong của quân đội đôi bên là 8.500.000 người, chưa kể đến số con người bị thương tật, tàn phế, mất tích thường vẫn cao hơn số tử vong nhiều, và cũng chưa kể đến số tử vong và thương tật cũng vô cùng to lớn trong lãnh vực dân sự. Cũng lại chưa nói đến sự thiệt hai vì tàn phá, đỗ vỡ trên đất nước đôi bên.

Giữa lúc kinh nghiệm đau thương ấy còn hằn lên rõ nét trong tâm trí mọi người thì chỉ hai thập kỷ sau, thế chiến thứ hai đã nổ ra, đưa con số tử vong lên đến 14.500.00 người. Dĩ nhiên, các con số khác về thương tật, tàn phế, mất tích, thiệt hại dân sự cũng như mức độ tàn phá, đổ vỡ cũng theo tỷ lệ tử vong mà nhân lên. Đúng là núi xương sông máu! Người ta đang tay vẽ nên bức tranh bi thảm bằng máu và nước mắt trùm lên phần lớn diện tích trái đất. Hình như con người vẫn chưa thỏa, còn nuôi dưỡng ý định vẽ một bức tranh bi thảm hơn nữa, to tát hơn để liệm kín hành tinh xinh đẹp và yêu quý này.

Thực vậy, sau thế chiến thứ hai, người ta lại ráo riết chuẩn bị chiến tranh, lại mài nanh, dũa vuốt. Nào là tối tân hóa vũ khí, chạy đua vũ trang, nào là thành lập các khối quân sự đối đầu. Tình trạng quốc tế đôi đã rất căng thẳng, chiến tranh có vẻ đã cận kề, khiến người ta không thể không đặt câu hỏi: Liệu loài người có may mắn tránh được thế chiến thứ ba hay không?

Thật là khó mà giải thích được thái độ và hành động vô lý của con người. Phải chăng đúng như một triết gia Đức, ông Schopenhauer, đã nhận định là có một ma lực tiềm phục nơi con người, luôn thúc đẩy con người sang tạo và phá hoại không ngừng. Ma lực đó không cho phép con người rút được những kinh nghiệm khổ đau, để từ đó dứt khoát từ bỏ chiến tranh, mà lại chỉ cho phép con người rút được những kinh nghiệm để tiến hành chiến tranh ngày một hữu hiệu hơn, nghĩa là tàn bạo hơn, dã man hơn để rồi tự lún sâu vào khổ đau, chết chóc như con thiêu thân lao vào lửa đỏ.

Loài người vẫn tự phụ về tiến bộ khoa học, kỹ thuật đã đạt được. Đúng vậy, khoa học, kỹ thuật quả có tiến bộ vượt bực khiến con người đã bay hơn chim, lội hơn cá. Dù có xa xôi vạn dặm cũng như gần gũi gang tấc. Chỉ vài giờ bay là ta có thể đến bất cứ nơi nào trên trái đất. Nhấc chiếc máy điện thoại lên ta có thể trò chuyện với một người ngàn trùng xa cách. Ngồi nhà ta vẫn coi được sự kiện xảy ra tại bất cứ nơi nào trên hành tinh này rõ ràng đầy đủ, in tuồng như ở trước mắt. Nhưng cũng chính ma lực tiềm phục kia đã khiến con người lợi dụng những tiến bộ khoa học, kỹ thuật để sản xuất ra các loại vũ khí vô cùng khủng khiếp đưa nhân loại sát gần bờ vực thẳm. Đúng là lợi bất cập hại! 

Có còn đáng gọi là tiến bộ nữa không? Chẳng lẽ tiến bộ lại đồng nghĩa với sự tự sát?
Chính ông Albert Einstein, nhà khoa học nổi danh của thế kỷ này, ngay từ năm 1946, đã đưa ra lời kêu gọi đầy lo âu: “Phải cáo tri nhân loại rằng họ đang ở trong tình trạng nguy hiểm chết người”(1). Khoa học đã trở thành trọng tội.

Lại nữa, ông Niels Bohr, một bác học nguyên tử Đan Mạch đã nói với ông Oppenheimer, một nhà bác học nguyên tử Hoa Kỳ như sau: “Ý kiến mới nào của tôi trong lãnh vực nguyên tử cũng có kèm theo ý kiến tự sát”(2).

Sau khi chi tiêu không biết bao nhiêu là tiền bạc, xung dụng không biết bao nhiêu là tài nguyên, nhân lực vào việc sản xuất binh khí, chiến cụ làm cho đời sống con người ngày thêm khó khăn về phương tiện vật chất và thêm sợ hãi về tinh thần, nay con người có suy tính đến việc giải trừ quân bị, nghĩa là cùng nhau thỏa thuận đem vũ khí đã sản xuất ra để từng bước hủy hoại bớt. Bước đầu cũng có những kết quả đáng khích lệ. Theo đà này liệu con người có thể dần dà đi đến một thế giới không còn vũ khí, một thế giới hòa bình thật sự để nhân loại vĩnh viễn thoát khỏi họa chiến tranh không? 

- Chắc chắn là không. Suốt quá trình tiến hóa của con người qua các thời đại, chưa bao giờ con người lại chịu vứt bỏ toàn bộ binh khí đã sản xuất ra để nhằm chung sống hòa bình. Ở thời đại thạch khí, các vũ khi bằng đá được sản xuất ra và đã được tận dụng để giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp giữa các bộ lạc. Ở thời đại kim khí thì giáo mác, gươm đao, rồi súng đạn được sản xuất ra cũng đã được tận dụng để tranh thắng trong các cuộc chiến tranh lớn nhỏ. Ở thời đại nguyên tử thì vũ khí hạt nhân được sản xuất ra và cũng đã được sử dụng, nhưng vì hiệu quả ghê gớm của nó, nên thời gian qua người ta không nỡ, hay đúng hơn là không dám tận dụng để giải quyết mọi bất đồng. Và nay cũng vì hiệu quả ghê gớm ấy đã khiến con người tính đến việc giải trừ loại vũ khí này và các loại vũ khí độc hại khác, để hy vọng một ngày nào đó loại bỏ được sự sợ hãi thường trực đè nặng lên tâm tư nhân loại từ mấy thập kỷ nay rồi. Nhưng ma tiềm phục không cho phép con người làm việc này một cách triệt để. Đúng vậy, sau một thời gian dài kiên trì thương thuyết, người ta mới đạt được một thỏa thuận bước đầu đem một số hỏa tiển có đầu đạn hạt nhân ra hủy diệt. Nhưng cũng chỉ có hai nước Hoa Kỳ và Liên Xô làm việc này, còn các nước khác cũng là sở hữu chủ các kho vũ khí độc hại vẫn không tham gia việc làm đầy tính nhân đạo ấy. Và số vũ khí đem ra hủy diệt cũng chẳng thấm gì so với số hiện có.

Lại nữa, tuy đã có hiệp ước quốc tế cấm phổ biến vũ khí hạt nhân, cấm sản xuất các vũ khí hóa học. Nhưng con số những nước có khả năng sản xuất các loại vũ khí này cứ dần dần gia tăng.

Còn việc giải trừ các loại vũ khí quy ước thì chưa ai nói tới. Con đường đi đến một thế giới không còn vũ khí xem ra dài xa vô tận đến gần như không tưởng.

Tình hình thế giới gần đây có nhiều đổi thay quan trọng với sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản tại nhiều nơi trên thế giới. Cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối cộng sản và tư bản hầu như chấm dứt. Thế đối đầu quân sự giữa hai khối Nato và Vác sơ va không còn nữa. Người ta đang nói đến một trật tự thế giới mới. Có vẻ như nhân loại đang bước vào một kỷ nguyên hòa bình. Nhưng không, thế giới của chúng ta chẳng bao giờ lại có thể có hòa bình thực sự được. Nói như vậy, chẳng phải là tôi không tin vào sự khôn ngoan của loài người mà tôi là một thành viên. Cũng chẳng phải vì tôi bi quan hay có ác ý, không cầu mong những điều tốt lành mà chỉ ước muốn những điều tai họa đến với nhân loại. Nhưng quá trình tiến hóa đã chứng minh điều đó. Có ra khỏi thế đối đầu này thì con người lại bước sang một thế đối đầu khác. Mâu thuẫn không ở quy mô này cũng ở quy mô khác, không lộ liễu, ồn ào, cũng ngấm ngầm âm ỉ. Trật tự thế giới mới nếu có hình thành thì tất cũng có lợi cho một số nước này và có hại cho một số nước khác. Cuộc đổi thay nào mà chẳng vậy! Mầm mống tranh chấp vẫn cứ tồn tại thường hằng không sao ngăn chận và tiêu diệt được, mặc dù có những cố gắng liên tục và to lớn giữa con người.

Đừng mong gì ở những đổi mới. Vì đổi mới tổ chức, đổi mới tư duy hay đổi mới gì gì đi nữa thì cũng chỉ là đổi mới cái thế đối kháng cố hữu mà thôi. Tại sao vậy?

Vì thế giới của chúng ta thiếu vắng tình yêu thương chân thật. Tương quan giữa người với người không được xây dựng trên tình yêu thương, mà lại chỉ lập căn trên quyền và lợi. Tình yêu thương chỉ có trên bình diện ngôn từ và lại thường được dùng làm chiêu bài để che dấu một âm mưu nào đó. Ta hãy theo dõi, quan sát các hoạt động của các quốc gia, các tổ chức trên thế giới một cách vô tư. Dù có được ngụy trang bằng những lời lẽ hoa mỹ đến mấy đi nữa thì các họat động ấy cũng chỉ nhằm tìm kiếm một ưu thế nào đó để mà thủ lợi, hầu thỏa mãn tính tham lam, vị kỷ cố hữu của con người. Ai cũng chạy theo quyền lợi tất đưa đến va chạm, và tranh chấp nẫy sinh. Trong một tập thể nhỏ, một quốc gia hay trong cộng đồng quốc tế thì sự va chạm quyền lợi lúc nào cũng là đầu dây, mối nhợ của mọi xáo trộn, kình chống.

Muốn thế giới có hòa bình, muốn nhân loại an vui thì tương quan lợi lộc phải được thay thế bằng tình yêu thương chân chính. Chỉ có tình yêu thương chân chính mới cứu vãn được nhân loại, đưa nhân loại ra khỏi hiểm họa chiến tranh đã từ bao nhiêu thiên niên kỷ rồi, khi ẩn, khi hiện, vẫn hiện diện trên trái đất này. Nói khác đi, hòa bình thật sự chỉ ló dạng khi tình yêu thương ló dạng. Chỉ có ánh sáng của tình yêu thương mới xua tan được bóng tối của tranh chấp, đối kháng. Nhưng tình yêu thương chân chính chỉ ló dạng khi tư tưởng ngưng dứt, và tư tưởng chỉ ngưng dứt khi ta thấu hiểu nó. Nếu tất cả những nhà lãnh đạo, những người có quyền chức trên thế giới này thay vì quay ra chạy theo, rượt bắt các mục tiêu xa gần, lại quay vào để thấu hiểu tư tưởng mình từng phút từng giây thì bộ mặt của thế giới này nhất định sẽ đổi thay.

Tư tưởng chính là ma lực tiềm phục trong con người của chúng ta. Và con ma tư tưởng chỉ biến mất đi khi ta nhận diện rõ ràng được nó, nghĩa là bất cứ lúc nào hễ nó hiện ra, và hiện ra dưới hình dạng nào là ta cũng điều hay biết thì nó phải ra đi để nhường chỗ cho tình yêu thương ngự trị và đâm bông trong tâm tư ta. Chỉ khi đó thì hòa bình thật sự mới đến với hành tinh này. Nếu loài người ai ai cũng đều hiểu thấu tư tưởng của mình thì hạnh phúc, an vui sẽ đến với mọi cá nhân, mọi tập thể, mọi quốc gia. Trần gian này sẽ không còn là biển khổ, là địa ngục, mà trái lại sẽ là Niết bàn, là cảnh giới Phật, là Thiên quốc.

Hiểu thấu tư tưởng mình từng phút từng giây còn gọi là tỉnh thức, là sống trọn vẹn với hiện tiền, là sống phi thời gian.

Đức Khổng Tử, nhà đại hiền triết Trung Hoa, đồng thời với đức Phật, người được Đông phương tôn xưng là “Vạn Thế Sư Biểu”, nghĩa là ông thầy của muôn đời, từ hơn hai mươi lăm thế kỷ trước đâycũng đã đưa ra một công thức nổi danh để giúp cho thiên hạ được thái bình, an lạc. Đó là công thức “tu, tề, trị, bình”, tức tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.

Người lãnh đạo muốn thành công trong việc trị quốc, bình thiên hạ, nghĩa là biết xếp đặt, sửa sang mọi việc để đưa nhân dân dưới quyền chăn dắt của mình đến chỗ thanh bình, sung túc, tiến bộ, thì phải biết tề gia trước đã. Biết tề gia là biết coi sóc trong nhà cho được ngăn nắp, biết quản lý gia đình để sao cho trong ấm, ngoài êm, dưới trên thuận thảo, cơm lành canh ngọt và ngày một đi lên về mọi mặt. Vì với một tập thể nhỏ mà không thành công, thì mong gì thành công ở tập thể lớn. Với gia đình, thân nhân ruột thịt mà không hết lòng, mà không có tinh thần trách nhiệm, thì làm sao lại có thể tận tâm, tận tình với dân, với nước, với thiên hạ cho được.

Nhưng muốn tề gia thì phải tu thân. Tu thân là sửa mình theo đạo đức (to perfect oneself) nghĩa là biết ăn ở, cư xử theo đạo lý và đức hạnh.

Muốn tu thân thì phải có tâm cho chính (chính kỳ tâm), tức là phải có tâm ngay thẳng, chính trực.

Muốn có tâm cho chính thì phải có ý cho thành (thành kỳ ý), mà thành ý chính là thấu hiểu tư tưởng của mình một cách thành thật. Ý hay tư tưởng của mình thế nào thì mình phải thấu hiểu nó y như thế và thấu hiểu tức thì. Nếu ta khởi tham, khởi sân, khởi si mà không biết ngay rằng mình đang tham lam, sân hận, si mê thì không phải là “thành kỳ ý”.

Hạnh phúc thay cho nhân loại trên hành tinh này, nếu tất cả các nhà lãnh đạo trên thế giới ai ai cũng đều “thành kỳ ý”. Đúng vậy, chỉ cần một nhà lãnh đạo nào đó có trong tay các loại vũ khí độc hại mà không “thành kỳ ý”, nghĩa là không thấu hiểu tư tưởng của chính mình là đã đủ đưa nhân loại đến một thế hiểm nghèo, cận kề bờ vực thẳm.

Luôn luôn tỉnh thức nghĩa là thường xuyên thấu hiểu tư tưởng mình thì một chuyển hóa sẽ xảy ra, đưa tâm ta từ trạng thái lăng xăng, loạn động sang trạng thái an nghĩ, tính lặng, sáng suốt, một trạng thái phi tư tưởng. Chỉ có tâm thái này mới hàm chứa tình yêu thương chân thật. Chỉ có tâm thái này mới đưa thế giới đến hòa bình thật sự và đúng nghĩa. Đúng vậy, tâm bình thì thế giới bình. Tâm điên đảo thì thế giới điên đảo. Thế giới bên ngoài chỉ là một kết quả, là con đẻ của nội tâm con người.

Đức Phật cũng dạy vạn pháp do tâm. Bộ mặt của tập thể nhỏ, tập thể lớn và rộng nữa là của thế giới loài người có ra sao đi nữa, hòa bình, ổn định hay rối ren như bòng bong thì cũng tùy ở nơi tâm con người mà ra.

Nếu mọi người lãnh đạo hay không lãnh đạo, ai ai cũng có tâm thái an nghĩ, tĩnh lặng, sáng suốt thì nhân loại lo gì không có an vui, thế giới lo gì lại không có hòa bình trật tự. Năm châu như một nhà. Bốn biển đều là anh em.

Mọi ý thức hệ, mọi cuộc cách mạng, mọi cải cách, sửa sai, xét lại, đổi mới, tái cấu trúc, hay một trật tự thế giới nào đó cũng chẳng thể mang lại hòa bình, ổn định cho trái đất này, vì chúng đều là con đẻ của tư tưởng. Tư tưởng thì luôn luôn tham lam, vị kỷ. Có mặt của tư tưởng là có cái “ta” và cái “không ta”. Từ đó tranh chấp nẩy sinh và hòa bình thật sự chẳng bao giờ lại có trong thế giới con người chúng ta.

 

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *