MỘT HIỆN TƯỢNG LẠ KHI ĐỌC KINH PHÁP BẢO ĐÀN

Đầu năm 1978 tôi có mua được quyển Pháp Bảo Đàn Kinh của ngài Lục Tổ Huệ Năng (do Minh Trực Thiền sư dịch) ở chợ sách cũ đường Đặng thị Nhu quận nhất. Mang về đọc, lời văn của Pháp bảo Đàn thật bình dị, trong sáng. Càng đọc tôi càng thấy thích. Mỗi ngày sau buổi đi làm về, cứ đem sách ra đọc.

Tôi cầm quyển sách thật nhẹ nhàng vì sách đã cũ, gáy sách đã sờn.

Lúc đó tôi đang làm việc tại một trại phong và đã lập gia đình gần một năm. Tôi và vợ tôi sống ở một căn phòng trên lầu một của một khu trại bệnh phong 2 lầu. Cạnh đó là phòng của đôi vợ chồng anh kế toán trưởng bệnh viện. Và bên ngoài 2 căn phòng này có khoảng 5 nhân viên y tế độc thân, mỗi nhân viên có một chiếc giường xếp gần nhau. Nhân viên y tế nhà ở Sài Gòn cứ mỗi tuần có chiếc xe đưa lên vào ngày thứ hai và xe đưa về Sài gòn vào thứ bảy. Việc đọc sách Pháp bảo đàn kinh và những ưu tư về Đạo, chỉ riêng mình tôi. Nên những điều chưa hiểu khi đọc sách, tôi không biết hỏi ai…

Thời gian đó, tôi vẫn âm thầm đọc quyển Pháp Bảo Đàn: “Ngũ Tổ gõ gậy lên đầu cối ba lần, rồi bỏ đi. Ngài Huệ Năng hiểu Ngũ Tổ muốn nói gì, nên đợi đến canh ba (khoảng 12 giờ đêm), Ngài vào thất của Ngũ Tổ. Vừa thấy Huệ Năng vào, Ngũ Tổ lấy áo Cà Sa khoác vào cho, rồi đọc Kinh Kim-Cang cho nghe. Khi Ngũ-Tổ đọc tới chỗ: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”, đột nhiên ngài Huệ Năng một lần nữa thấy đột sáng, biết cả thảy các Pháp đều chẳng lìa tánh mình, nên Ngài buột miệng thốt ra năm câu kệ:

Nào dè tánh mình vốn không sanh diệt,

Nào dè tánh mình vốn thanh tịnh trong sạch,

Nào dè tánh mình vốn chứa đầy đủ muôn Pháp,

Nào dè tánh mình vốn không dao động,

Nào dè tánh mình vốn sinh ra muôn Pháp.

Ngũ-Tổ biết Ngài đã tỏ sáng bản tánh, nên nói:

– Nếu biết bản tâm thấy bản tánh, tức gọi là Trượng phu, là Phật, là Thầy cõi Người và cõi Trời.

Sau đó Ngũ Tổ truyền Pháp, trao Y Bát cho Huệ Năng, và nói:

– Ngươi làm Tổ thứ sáu kể từ nay, hãy gìn giữ và nhớ lấy đạo tâm của mình; phải quảng độ chúng sanh và lưu truyền chánh pháp cho đời sau, đừng để đoạn tuyệt. Rồi Ngũ Tổ nói kệ:

Hữu tình được gieo giống,

Nhân gieo quả ắt sinh,

Vô tình không có giống,

Vô tánh cũng không sinh.

Ngũ Tổ căn dặn:

– Từ xưa Chư Phật chỉ truyền cái Bản lai là cội gốc của các Pháp. Y Bát là cái mối tranh giành, tới đời ngươi đừng truyền nữa. Thôi hãy đi đi cho nhanh, kẻo có kẻ hại ngươi.

Bấy giờ đang đêm tối, không thuộc đường đi, nên ngài Huệ Năng hỏi Ngũ Tổ:

– Con nên đi đến xứ nào, và đêm tối thế này con không thông thuộc đường đi quanh đây, làm sao con ra khỏi nơi này mà đi được?

Ngũ Tổ nói:

– Chẳng cần lo, để ta dẫn ngươi; khi gặp huyện Hoài nên ở lại, Huyện Tứ Hội phải ẩn nương nơi đó.

Rồi Ngũ Tổ dẫn Ngài đi đến chỗ neo thuyền và bảo lên thuyền, Ngũ Tổ đích thân chèo thuyền đưa Ngài đến trạm Cửu Giang.

Sau khi đưa Huệ Năng đi, Ngũ Tổ trở về, mấy ngày sau chẳng ra giảng đường, các môn đồ thắc mắc bèn đến thăm và nói:

– Hòa Thượng có bệnh hay sao mà không thấy ra giảng đường?

Ngũ Tổ nói:

– Ta chẳng có bệnh chi, nhưng Y Bát đã đi phương Nam, vì ta đã truyền Y Pháp cho Huệ Năng rồi.

 

Khi ấy: mọi người mới biết việc Ngũ Tổ đã truyền Y Pháp cho ngài Huệ Năng.

Trải qua hai tháng, ngài Huệ Năng đi bộ tới núi Đại du Lãnh. Cũng lúc ấy có mấy trăm người vừa Tăng vừa tục đuổi theo Ngài, mong đoạt lấy Y Bát.

Có một thầy tăng tên là Huệ Minh, ngày trước làm chức Tứ phẩm Tướng quân, tính tình thô bạo, làm đầu chúng Tăng tục, quyết chí đuổi theo tìm Ngài cho kỳ được. Thầy Huệ Minh xông xáo đi trước và đuổi kịp. Vừa trông thấy có người đuổi tới gần, ngài Huệ Năng để Y Bát trên một tảng đá mà nói rằng:

– Y Bát này là vật làm tin, há dùng sức mà tranh được sao?

Nói rồi, Ngài ẩn mình trong đám cỏ tranh gần đấy, Thầy Huệ Minh vừa thoáng thấy bóng ngài Huệ Năng, vội vàng chạy đến thấy áo Cà Sa và Bình bát ở trên tảng đá, mà chẳng thấy người đâu. Thầy Huệ Minh mừng rỡ, liền rảo bước tới lấy Y Bát, nhưng không sao nhấc lên được, thật lạ thay! Thầy Huệ Minh biết rằng ngài Huệ Năng đã đắc đạo có thần thông, nên thầy liền nói lớn lên rằng:

– Hành giả, Hành giả, tôi vì Pháp mà đến đây, chứ chẳng phải vì tranh Y Bát đâu, xin Hành giả từ bi thương xót.

Nghe vậy, ngài Huệ Năng bước ra khỏi đám cỏ tranh, đoạn ngồi trên tảng đá; Huệ Minh liền làm lễ rồi nói:

– Mong ơn Hành giả nói Pháp cho tôi nghe.

Ngài Huệ-Năng nói:

– Ông vì Pháp mà đến đây thì phải dứt hết duyên trần, chớ sinh một niệm tưởng, tôi sẽ nói rõ Phật Pháp cho ông nghe.

Lẳng lặng một lúc, đợi cho thầy Huệ Minh thực hiện điều vừa nói, ngài Huệ Năng mới bảo:

– Ông chẳng nghĩ việc lành, không nghĩ điều ác, chính trong thời gian đó, cái ấy, tức là tỏ thấy cái Bản lai Diện mục của ông vậy.

Thầy Huệ Minh vừa nghe xong liền rất tỏ sáng, lại hỏi:

– Ngoài các lời nói và ý chỉ mật nhiệm do trên truyền xuống từ xưa tới nay, còn có ý chỉ mật nhiệm nào nữa không?

Ngài Huệ Năng nói:

Chỗ tôi nói với ông, đó chẳng phải là mật nhiệm; nếu ông soi lại vào trong thì thấy chỗ mật nhiệm ở bên ông”.

 

Thời gian đó ở trại Phong, lúc rảnh tôi cứ đọc quyển Pháp Bảo Đàn Kinh, nhất là câu “Ông chẳng nghĩ việc lành, không nghĩ điều ác, chính trong thời gian đó, cái ấy, tức là tỏ thấy cái Bản lai Diện mục của ông vậy”.

 

Khi đọc đến đây, lúc nào tôi vẫn không quên đặt tâm mình ở chỗ “Không nghĩ việc lành, không nghĩ điều ác”. Một thời gian sau (tôi không nhớ chính xác là bao lâu, tôi nghĩ có lẽ khoảng 3 tháng).

 

Một hôm, vừa thức dậy, tôi cảm thấy dường như có sự lạ xảy ra:

Trong lòng tôi thanh thản. Một cảm giác hạnh phúc, an bình khó tả. Tôi ngồi dậy vẫn đánh răng, rửa mặt, ăn sáng, đi làm việc…như mọi ngày.

Tôi có cảm giác cơ thể tôi nhẹ nhàng, không còn nặng nề do trọng lượng của cơ thể mình. Những kết cấu của tế bào cơ thể hình như được nới giãn, nhẹ đi.

Kể cả quần áo của tôi đang mặc, cảnh vật bên ngoài từ con đường đá đỏ, từ hàng cây sứ hai bên đường, từ những khu trại bệnh, từ những bệnh nhân phong mà tôi đang phục vụ, những mảnh đất và những cây khoai mì…hình như rung động. Tất cả vẫn không thay đổi nhưng tôi thấy có cảm giác nhẹ hơn, lung linh và rực rỡ lên.

Tôi quan sát kỹ thêm, không gian mà tôi sống không có sự đối nghịch của ánh sáng như ánh sáng chói chang của mặt trời và bóng tối dưới hàng cây như thường lệ. Tôi chỉ thấy nơi nào cũng có một cường độ ánh sáng như nhau, vẫn những màu của lá xanh, hoa sứ trắng…nhưng rực rỡ mà lại không chói chang và hình như tôi không thấy nơi nào tối xung quanh mình!

Tôi thấy các soeur dòng Thánh Vinh Sơn mặc trang phục màu xanh đậm đi dưới hàng bông sứ trắng, tôi thấy những bệnh nhân phong đang vun gốc dưới những cây khoai mì. Tất cả đều lung linh, rực rỡ. Tôi cứ ngỡ mình lạc vào một cõi nào đó.

Tôi ngỡ ngàng và vô cùng ngạc nhiên vì không hiểu chuyện gì xảy ra.

Tôi nhớ lại trong thời gian trước, và tự hỏi, mình có như vậy không. Và tôi cố nhớ lại trong các kinh sách đã đọc có mô tả về trường hợp này không. Tuyệt nhiên không, do đó tôi xác định đây không phải là sự ám thị.

Mà đây là một sự thật. Lúc đó tôi vẫn còn cảm giác, còn suy nghĩ, và sinh hoạt như thường lệ. Chỉ có vài điều khác là những chuyện thường ngày, ở gia đình, ở bệnh viện, vẫn như mọi ngày nhưng tôi không còn thấy quan trọng và không làm tôi bận tâm. Tất cả đều hài lòng an lạc. Ngoài cảm giác an bình và hạnh phúc thì hầu như những tư tưởng suy nghĩ trong tôi vắng bặt.

Tất cả sự việc thường lệ vẫn còn đó. Nhưng không gian thật yên bình và thời gian có vẽ lững lờ trôi. Tôi có cảm nhận mình và cảnh bên ngoài đều an bình, hạnh phúc, hoàn mãn. Lúc đó, tôi không mong muốn gì thêm. Và tôi không hiểu nổi. Tưởng mình đã đến nơi. Nhưng sau 3 ngày tình trạng như mơ đó dần dần biến mất. Rồi hơn 40 năm sau vẫn không tái hiện lại.

Trong suốt 3 ngày tôi vô cùng ngạc nhiên và hạnh phúc. Tôi chỉ muốn sống mãi trong “hiện tượng lạ” này, không mơ ước gì hơn dù vợ chồng tôi, lúc đó, đang sống với tiền lương ít ỏi, chưa có con, không nhà, không tài sản riêng.

Nhưng sau 3 ngày, như chuyện Từ thức lạc vào cõi tiên rồi trở lại trần gian. Cơ hội trở lại chốn Bồng lai là không thể, chỉ đứng ngoài cửa động. Tôi chợt nhớ đến bài thơ Tống Biệt của thi sĩ Tản Đà:

Lá đào rơi rắc lối thiên thai.

Suối tiễn, oanh đưa, những ngậm ngùi.

Nửa năm tiên cảnh.

Một bước trần ai.

Ước cũ, duyên thừa có thế thôi!

Đá mòn, rêu nhạt.

Nước chảy, hoa trôi.

Cái hạc bay lên vút tận trời.

Trời đất từ nay xa cách mãi.

Cửa động.

Đầu non.

Đường lối cũ.

Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi…

Sau này tôi cố loay hoay tu tập nhiều cách để tìm lại hiện tượng lạ trên nhưng đúng là “duyên thừa có thế thôi”. Tôi mong chờ, tìm kiếm nhiều năm….

Nhưng hiện giờ tôi không còn tiếc nuối nữa. Bởi tôi đã nghĩ khác rồi.

Tôi đã biết rằng: Tất cả từ cơ thể, tình cảm tư tưởng nghĩ suy của mình, và cả vũ trụ bên ngoài (thân, tâm, cảnh) đều tuân theo quy luật sinh diệt, có sinh tất có diệt, nhà Phật gọi là định luật vô thường (không còn hoài). Từ sự việc nhỏ đến sự việc lớn như núi sông, biển cả, cho đến cả vũ trụ đều bị chi phối bởi quy luật Vô thường.

Do đó, thời gian sống trong hiện tượng lạ cũng không ngoài quy luật Vô thường. Hiện tượng lạ sau khi đọc kinh Pháp bảo Đàn như một cành hoa đẹp trên đường thôi. Hoa có nở rồi phải có tàn. Trong kinh Kim Cang đức Phật nói:

Nếu lấy sắc thấy ta.

Lấy âm thanh cầu ta.

Người ấy đi đường tà,

Chẳng thể thấy Như Lai.

Có Sinh tất có Diệt. Nếu tìm Phật qua Sắc tướng, Âm thanh thì đã đi lạc đường rồi. Tại sao như vậy? Vì Âm thanh, Sắc tướng (kể cả Hương, Vị, Xúc, Pháp) cũng đều là pháp sinh diệt (có sinh thì phải có hoại), vô thường (không còn hoài), mà lấy đó để đi tìm Như Lai (là thường hằng, không sinh diệt) thì làm sao tìm cho được.

Hiện tượng lạ tôi gặp sau khi đọc kinh Pháp bảo đàn cũng chỉ là Sắc, Thanh…là pháp có sinh thì phải có hoại mà thôi.

 

Hơn 40 năm qua, bệnh viện phong đã thay đổi nhiều lắm rồi, những soeur làm ở trại phong đã già, đổi đi nơi khác và có người đã mất rồi. Những người cùng làm việc với tôi thời đó cũng vậy, có người định cư ở Mỹ, có người đã từ giả cuộc đời. Rồi những bệnh nhân, tôi nghĩ họ đã mất gần hết. Tôi không còn gặp ai. Bản thân tôi cũng vậy, tôi đã di chuyển nhiều nơi, tôi không còn trẻ nữa. Những tế bào trong thân thể tôi đã sinh ra và chết đi nhiều thế hệ. Tất cả đã thay đổi. Nhưng hạnh phúc thay, trong tôi, trong các bạn, có cái vẫn không thay đổi, không già cũng không chết.

 

 

Comments (1)
  1. BS HUỲNH HẢI 19 January 2023

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *